1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học tự nhiên >

CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TTCK TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM (1997 - 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 146 trang )


CHƢƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TTCK TỚI NỀN KINH

TẾ VIỆT NAM (1997 - 2008)

2.1 TTCK - kênh huy động vốn cho nền kinh tế

2.1.1 Nhu cầu về vốn của nền kinh tế Việt Nam

Trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới, kinh tế thị trƣờng là

đỉnh cao của nền kinh tế hàng hoá, trong đó cơ chế thị trƣờng vừa mang

tính chất một định chế, vừa mang đặc trƣng tự điều chỉnh và tự thích nghi

của tất cả các thành viên tham gia. Khi đề cập tới nền kinh tế thị trƣờng và

cơ chế huy động của nó thỡ khụng thể khụng đề cập tới một thiết chế quan

trọng mang tớnh tất yếu khỏch quan của nhu cầu kinh tế - xó hội, nhằm huy

động các nguồn vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp và cả nền kinh

tế quốc dân - đó là TTCK.

TTCK là hỡnh thức tổ chức thị trƣờng cao cấp trong nền kinh tế thị

trƣờng. Ngoài ra, đây cũn là cơ chế quan trọng trong việc phân bổ có hiệu

quả và hợp lý cỏc nguồn vốn trong nền kinh tế thị trƣờng. Lịch sử phát

triển nền kinh tế thế giới đó chứng minh TTCK khụng những nhanh chúng

thỳc đẩy tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia mà cũn cú ảnh hƣởng

sâu sắc tới sự phát triển và quốc tế hoá nền kinh tế toàn cầu. Trên thế giới

đó cú khụng ớt những TTCK là những trung tõm tài chớnh lớn và nổi tiếng

nhƣ: TTCK New York, London, Frankfurt, Tokyo, Hong Kong ...

Đối với kinh tế Việt Nam, TTCK ra đời và phát triển nhƣ một công

cụ tài chính hữu hiệu góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ

hơn. Nhỡn lại quỏ khứ, nền kinh tế Việt Nam ở bất kỳ giai đoạn nào, đều

có nhu cầu lớn về vốn đầu tƣ cả trong nƣớc và vốn nƣớc ngoài. Trên thực

tế đó xuất hiện nhiều mụ hỡnh thị trƣờng tài chính nhằm huy động nguồn

vốn nhàn rỗi trong nƣớc cũng nhƣ nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài để phát

triển kinh tế đất nƣớc. Song chỉ khi TTCK ra đời thỡ nhu cầu về vốn của



49



nền kinh tế mới thực sự đƣợc đáp ứng một cách ổn định, lõu dài và cú tổ

chức.

Sau khi kết thúc chiến tranh (năm 1975), Việt Nam trở thành một

trong những quốc gia nghèo nhất thế giới: với hơn 70% dân số sống ở nông

thôn; thu nhập bỡnh quõn trờn đầu ngƣời thấp [8, tr.123]. Cơ sở hạ tầng

nền kinh tế lạc hậu và trỡnh độ trang bị kỹ thuật - công nghệ trong toàn bộ

nền kinh tế quốc dân rất thấp kém. Sự lạc hậu về kinh tế là một trong

những nguyên nhân cơ bản của sự gia tăng dân số. Hậu quả của vấn đề này

đũi hỏi phải cung ứng vốn đầu tƣ để duy trỡ tớnh ổn định của thị trƣờng lao

động.

Thực trạng nền kinh tế Việt Nam cho thấy: vốn đầu tƣ giữ vai trũ

quyết định trong quá trỡnh tạo ra việc làm cho ngƣời lao động. Hiện tại

thiếu vốn là nguyên nhân chủ yếu của thất nghiệp. Trong những điều kiện

nhƣ hiện nay, với lƣợng vốn đầu tƣ khoảng 2.000 tỷ đồng, có thể tạo ra

khoảng 350.000 - 400.000 chỗ làm việc [8, tr.124]. Nhƣ vậy, có thể khẳng

định: để phát triển kinh tế và thực hiện việc cải cách sang nền kinh tế thị

trƣờng, Việt Nam cần phải huy động các nguồn vốn đầu tƣ không chỉ ở

trong nƣớc mà cũn cần phải huy động đƣợc các nguồn vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài với khối lƣợng lớn. Để thực hiện điều này, nhất thiết phải thiết lập

bằng đƣợc thị trƣờng vốn quốc gia. Tuy nhiên, khi nền kinh tế vẫn đƣợc

quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp thỡ chƣa có điều kiện để xây dựng

một thị trƣờng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, đó là TTCK.

Vỡ thế vào những năm 1986 - 1990 ở Việt Nam đó xuất hiện thị

trƣờng tài chính tự phát, đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp và

nhà đầu tƣ. Xuất hiện cỏc hỡnh thức tớn dụng thƣơng mại và tín dụng tiền

tệ giữa các doanh nghiệp. Đồng thời, hàng loạt các tổ chức “Tín dụng Nhân

dân” đó đƣợc thiết lập một cách tự phát trong phạm vi cả nƣớc (phần lớn

quỹ tín dụng nhƣ vậy thuộc sở hữu của các thể nhân). Trong đó, việc huy



50



động vốn cũng đó đƣợc thực hiện dƣới hỡnh thức cỏc CTCP (các NĐT tự

góp vốn để thành lập công ty).

Thị trƣờng tài chính (TTTC) đó tạo mụi trƣờng cho sự phát triển

mạnh mẽ của việc huy động vốn giữa các cá nhân, pháp nhân. Trong thời

gian đầu, nguồn vốn đƣợc huy động đó tỏc động lớn tới các doanh nghiệp

nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. TTTC bƣớc đầu đó tạo đƣợc

một nguồn tiền lớn kích thích sự phát triển của kinh tế trong nƣớc. Tuy

nhiên, do xuất hiện một cách tự phát, thiếu sự tổ chức và quản lý của Nhà

nƣớc nên TTTC nhanh chóng rơi vào khủng hoảng. Đó là cuộc khủng

hoảng tài chính tín dụng vào những năm 1989 - 1990. Nguyên nhân chủ

yếu là do sự huy động và phân phối một cách bừa bói những nguồn vốn

huy động đƣợc trên thị trƣờng. Hiện tƣợng chiếm dụng vốn lẫn nhau đó trở

thành phổ biến và diễn ra trong tất cả cỏc khu vực của nền kinh tế quốc

dõn. Hậu quả tất yếu của nú là: Sự đổ vỡ của toàn bộ hệ thống “Tín dụng

Nhân dân” trong cả nƣớc (Sự sụp đổ của hóng “Nƣớc hoa Thanh Hƣơng”

đó mở đầu cho cuộc khủng hoảng này).

Khủng hoảng tài chính và sự sụp đổ của hệ thống tín dụng năm 1990

đó dẫn đến cuộc khủng hoảng lũng tin của cụng chỳng và cỏc nhà đầu tƣ

(NĐT) cũn non trẻ; điều này đó gõy ra cản trở cho quỏ trỡnh hỡnh thành và

phỏt triển thị trƣờng vốn có tổ chức ở giai đoạn tiếp theo. Ngay sau cuộc

khủng hoảng tài chính tín dụng những năm 1989 - 1990, các cá nhân cũng

nhƣ các doanh nghiệp đó tỡm cho mỡnh một hƣớng đầu tƣ an toàn hơn.

Thay cho việc gửi tiền tiết kiệm và góp vốn cổ phần, ngƣời ta đó đổ xô vào

việc kinh doanh và đầu cơ đất đai, nhà ở bất động sản. Từ năm 1991 -1995,

việc kinh doanh đầu cơ đất đai đó diễn ra sụi động, mạnh mẽ trong phạm vi

cả nƣớc. Điều này đó chứng tỏ thời kỳ hỡnh thành và phỏt triển tự phỏt của

thị trƣờng bất động sản.



51



Cũng giống nhƣ TTTC trong giai đoạn 1986 - 1990, thị trƣờng bất

động sản (những năm 1991 - 1995) đó hỡnh thành và phỏt triển trong điều

kiện thị trƣờng không ổn định, nền kinh tế vẫn tồn tại dƣới hỡnh thức tập

trung bao cấp; Nhà nƣớc không có sự quản lý, tổ chức chặt chẽ (nếu nhƣ

năm 1991 thị trƣờng bất động sản đó ra đời và hoạt động mạnh mẽ thỡ đến

tháng 10 năm 1993 Luật đất đai mới bắt đầu có hiệu lực nhƣng lại chƣa

hoàn thiện và cũn rất đơn giản); ra đời một cách tự phát nên thị trƣờng này

cũng không trở thành một khu vực đầu tƣ có hiệu quả và mang nhiều dấu

hiệu của sự khủng hoảng. Điều này thể hiện ở chỗ: bên cạnh những thắng

lợi do buôn bán theo phƣơng thức “chộp giật” là sự lỗ vốn, phá sản hoặc vi

phạm pháp luật của nhiều cá nhân, tổ chức đó trở thành phổ biến. Ngoài ra,

những khó khăn trong quá trỡnh xỏc định giá trị, giá cả của nhà ở, đất đai

cùng với việc đũi hỏi lƣợng vốn đầu tƣ lớn đó cản trở tốc độ chu chuyển

của đồng vốn, các NĐT không thể rút vốn một cách nhanh chóng và thuận

lợi để thực hiện những mục tiêu đầu tƣ mới. Mặt khác, những nguồn vốn

không tập trung, nhỏ lẻ trong xó hội rất khú khăn tham gia vào hoạt động

của thị trƣờng này. Để giải quyết những mâu thuẫn đó, nền kinh tế đũi hỏi

phải cú đƣợc những phƣơng thức đầu tƣ mới với những sản phẩm tài chính

mới phù hợp với các quan hệ thị trƣờng của nền kinh tế. Trong đó, huy

động vốn để trực tiếp phục vụ việc phát triển sản xuất trong nƣớc có ý

nghĩa quyết định nhất.

Nhƣ vậy, đến những thập niên cuối thế kỷ XX, nhu cầu về một thị

trƣờng vốn ổn định, bền vững và có tổ chức - quản lý của Nhà nƣớc trở

thành bức thiết đối với nền kinh tế Việt Nam. Chỉ khi nào một thị trƣờng

tài chính tín dụng xuất hiện với khả năng tập trung đƣợc nguồn vốn trung

và dài hạn thỡ mới cú thể thỳc đẩy đƣợc nền kinh tế phỏt triển, đảm nhiệm

đƣợc vai trũ đó chỉ có thể là TTCK. Do vậy, vào những năm 90 của thế kỷ

XX, Việt Nam đó nhanh chúng chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự



52



ra đời của thể chế tớn dụng bậc cao này. Ngày 28/7/2000, TTCK Việt Nam

chớnh thức đi vào hoạt động, mở đầu thời kỳ phỏt triển mới của nền kinh tế

đất nƣớc.

TTCK ra đời đó đáp ứng nhu cầu tập trung vốn của nền kinh tế đồng

thời khắc phục những hạn chế mà những thị trƣờng tài chính ra đời tự phát

trƣớc đây cũn mắc phải. Nếu nhƣ ở các nƣớc phát triển, TTCK đó hoàn

thành sứ mệnh là một kờnh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế thỡ ở

Việt Nam, TTCK cũng đang dần hoàn thiện cơ chế hoạt động để chứng tỏ

vai trũ to lớn đó.



2.1.2 TTCK tạo ra sự dịch chuyển nguồn vốn đầu tư trong

nước

Thông thƣờng các đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh đều phải phụ

thuộc vào ngân hàng để có vốn hoạt động, có nghĩa là phải đi vay với lói

suất biến đổi tuỳ theo thị trƣờng. Đây là phƣơng thức tín dụng thƣờng thấy

nhất và cũng là hỡnh thức huy động vốn, tạo vốn cơ bản nhất. Tuy nhiên,

hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ đáp ứng đƣợc 30% nhu cầu đầu tƣ

trong nƣớc và 8% tổng mức đầu tƣ toàn xó hội [27, tr.299]. Nguồn vốn

nhàn rỗi trong xó hội khụng nhỏ nhƣng với cơ cấu tài chính - tín dụng hiện

tại thỡ chỳng khụng thể chuyển hoá thành vốn đầu tƣ dài hạn đƣợc. TTCK

ra đời đó phần nào thay thế phƣơng thức tín dụng cơ bản đó và đó dần làm

thay đổi dũng chảy của nguồn vốn núi chung và dũng chảy của nguồn tiền

nhàn rỗi trong xó hội. Khi tham gia đầu tƣ trên TTCK nhỡn chung các

NĐT có thể đạt đƣợc lợi ích cao qua lói suất hấp dẫn. Hơn nữa, thị trƣờng

cũn mang tớnh chất đầu tƣ, do đó thu hút không ít các NĐT bỏ vốn vào thị

trƣờng này.

Thụng qua TTCK, cỏc nhà trung gian mụi giới, cỏc nhà bảo lónh, cổ

phiếu của các đơn vị kinh tế có thể phỏt hành và bỏn rộng rói trong cụng

chỳng để huy động vốn. Các nguồn vốn này đƣợc đảm bảo và sử dụng lâu

53



dài. Khác với các TTTC trƣớc đây, TTCK đƣợc quản lý và tổ chức một

cỏch chặt chẽ do đó những ngƣời tham gia vào TTCK đều đƣợc đảm bảo

về quyền lợi về phƣơng diện pháp luật. Bất cứ một công ty nào đƣợc niêm

yết trên thị trƣờng giao dịch và SGDCK đều phải giải trỡnh kết quả hoạt

động của mỡnh trƣớc UBCKNN và công chúng; cũng chỉ những công ty

hoạt động tốt, có lợi nhuận cao mới đƣợc chấp thuận niêm yết trờn

SGDCK. Nguồn vốn đầu tƣ đƣợc đảm bảo đó tạo ra sự đầu tƣ lâu dài và ổn

định. Đó là yếu tố cần thiết cho sự phát triển kinh tế.

Đối với chính phủ cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành

các loại chứng khoán nhƣ công khố phiếu hay tín phiếu kho bạc. Đây là

những công cụ phổ biến để huy động nguồn vốn cần thiết cho chi tiêu và

đầu tƣ của Chính phủ. Thực tế cho thấy, không có TTCK thỡ Nhà nƣớc vẫn

phát hành đƣợc chứng khoán nhƣng nếu có TTCK thỡ Nhà nƣớc bán một

cách dễ dàng hơn. Vỡ cụng khố phiếu của Nhà nƣớc cũng là một loại

chứng khoán chuyển nhƣợng đƣợc, khi cần tiền chủ sở hữu có thể đƣa nó

ra bán tại TTCK. So với chứng khoán của các doanh nghiệp, các công trái

hay chứng khoán của Nhà nƣớc phát hành có lói suất ổn định hơn và đảm

bảo thu hồi vốn khi đến hạn, ít rủi ro hơn vỡ vậy đa số ngƣời dân thích đầu

tƣ vào hơn.

Khi muốn mở rộng sản xuất, cần vốn đầu tƣ, các CTCP thực hiện

phát hành cổ phiếu ra công chúng. Các NĐT sẽ nghiờn cứu, đánh giỏ hoạt

động của những cụng ty này để tỡm ra những cụng ty hoạt động tốt, có lợi

nhuận cao. Trên cơ sở đó, họ mang nguồn tiền tiết kiệm thay vỡ gửi vào

ngõn hàng hoặc rỳt nguồn vốn đang đầu tƣ vào lĩnh vực không hiệu quả về

để đầu tƣ vào các công ty đang làm ăn phát triển. Sau khi góp vốn vào các

CTCP bằng cách mua cổ phiếu của công ty đó, các NĐT đƣợc trả một

khoản lợi tức phù hợp với lợi nhuận mà công ty đạt đƣợc hàng tháng.

Nguồn lợi tức đƣợc hƣởng này tƣơng đƣơng hoặc lớn hơn so với lói suất



54



ngõn hàng song cú thể thu đƣợc lói lớn nếu thị giỏ của cổ phiếu trờn thị

trƣờng tăng. Việc mua đi bán lại chứng khoán trên TTCK không chỉ giúp

các NĐT đầu tƣ thu đƣợc lói suất mà cũn tạo điều kiện di chuyển vốn đầu

tƣ từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, chuyển vốn đầu tƣ từ ngành này sang

ngành khác, góp phần điều hoà nguồn vốn giữa cỏc ngành kinh tế, tạo sự

năng động trong kinh doanh, sản xuất [14, tr.21].

Tuy nhiên, ở Việt Nam không phải ngay từ đầu TTCK đó thực hiện

tốt vai trũ này. Thời gian đầu mới thành lập, TTCK cũng trải qua nhiều thử

thách và Nhà nƣớc đó phải cú nhiều biện pháp hỗ trợ để thị trƣờng đứng

vững. Cho tới nay, nguồn cầu trên TTCK đó tăng lên đáng kể, thu hút một

nguồn vốn lớn trong công chúng, đáp ứng đƣợc nhu cầu về vốn để mở rộng

quy mô sản xuất của các CTCP nói riêng và của toàn kinh tế nói chung.

Trƣớc ngày 20/7/2000, tức ngày khai trƣơng TTGDCK thành phố

Hồ Chí Minh mọi trao đổi, mua bán các chứng chỉ có giá trong nền kinh tế

Việt Nam diễn ra tự phát giữa các chủ thể kinh tế, chủ yếu giữa dân cƣ với

nhau và giữa dân cƣ với ngân hàng thƣơng mại. Do đó, khối lƣợng giao

dịch cũn nhỏ lẻ và quy trỡnh giao dịch cũng diễn ra khụng đồng bộ.

Khi TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động với hai

công ty niêm yết ban đầu là REE và SAM, tổng mệnh giá cổ phiếu lƣu

hành trên TTCK Việt Nam là 270 tỷ đồng, một con số tƣơng đối lớn vào

giai đoạn đầu tiên. Song do số lƣợng ngƣời mở tài khoản tham gia giao

dịch chƣa nhiều nên giá trị các vụ giao dịch thực hiện không thành công.

Điều này phản ánh lƣợng cầu diễn ra trong xó hội khụng lớn, hay núi cỏch

khỏc TTCK chƣa thực sự thu hút đƣợc nguồn vốn trong xó hội. Sau 4 năm

hoạt động, các công ty niêm yết nhƣ: CTCP Đại lý liờn hiệp vận chuyển

(GMD), CTCP Giấy Hải Phũng (HAP), CTCP xõy lắp Bƣu điện Hà Nội

(HAS) ... đó huy động đƣợc 77,5 tỷ đồng để đầu tƣ phát triển [8, tr.226],

tức là lƣợng đầu tƣ thực tế của thị trƣờng đối với các doanh nghiệp tăng



55



nhƣng không mạnh, nguồn vốn đầu tƣ tăng chủ yếu là đối với trái phiếu

chính phủ do tính an toàn của nó.

Nhƣ vậy, trong thời gian đầu do tính chất mới mẻ, chƣa tạo lập đƣợc

lũng tin cũng nhƣ các công ty tiến hành cổ phần hoá chƣa nhiều nên TTCK

chƣa thực sự đƣợc biết đến. Đây chính là nguyên nhân khiến cho nguồn

vốn đƣợc huy động qua kênh TTCK chƣa lớn, dũng tiền nhàn rỗi trong xó

hội vẫn chƣa thực sự đƣợc sử dụng. Trƣớc thực trạng đó Nhà nƣớc đó đề ra

hàng loạt chính sách khuyến khích nhằm kích cầu chứng khoán. Nhờ

những chính sách này nhu cầu về chứng khoán đó tăng đột biến qua đó các

NĐT cũng nhƣ các doanh nghiệp có thể tạo ra một luồng chu chuyển vốn

một cách chủ động, linh hoạt và nhanh chúng.

Bƣớc sang năm 2006 - 2007, quy mô TTCK đó đƣợc mở rộng gấp

nhiều lần những năm trƣớc đó, giá trị giao dịch đạt những con số hết sức ấn

tƣợng. Tính đến ngày 31/12/2007, đó cú 507 loại chứng khoỏn đƣợc niêm

yết, thực hiện 1.699 phiên giao dịch liờn tục an toàn tại TTGDCK thành

phố Hồ Chí Minh (nay là SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh), giá trị giao

dịch đạt 384.452 tỷ đồng trong đó riêng năm 2007 là 245.651 tỷ đồng. Giá

trị giao dịch thành công tại TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đạt 79.5 tỷ

đồng/phiờn trong thời kỳ 2001 - 2005 và đó gia tăng mạnh mẽ trong hai

năm 2006 - 2007, đƣa giá trị giao dịch bỡnh quõn lờn hàng tỷ đồng mỗi

phiên. Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đó cú trờn 300.000 tài

khoản chứng khoỏn đƣợc mở, tăng hàng chục lần so với năm đầu tiên triển

khai, trong đó có trên 7.000 tài khoản của NĐT nƣớc ngoài. Sự tham gia

của các NĐT đó đó gúp phần quan trọng cho sự tồn tại và phỏt triển của

TTCK [40, tr.24].

Để tăng thêm khả năng huy động vốn, Nhà nƣớc đó khai trƣơng

TTGDCK Hà Nội năm 2005. Cùng với sự thành lập TTGDCK Hà Nội là

việc đƣa hệ thống đấu giá cổ phần các doanh nghiệp Nhà nƣớc cổ phần hoá



56



cũng nhƣ doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chuyển đổi thành CTCP

vào hoạt động. Những biện phỏp này đó gúp phần nõng cao lƣợng cầu

chứng khoán trên thị trƣờng. Điều đó đồng nghĩa với việc, một luồng vốn

lớn đƣợc huy động vào TTCK, kích thích các doanh nghiệp hoạt động tốt

hơn. Trong 3 tháng kể từ ngày thành lập, TTGDCK Hà Nội đó tổ chức đấu

thầu cho 9 doanh nghiệp đạt kết quả tốt thu hút đông đảo các NĐT trong và

ngoài nƣớc tham gia với cơ chế hỡnh thành giỏ cả theo thị trƣờng. Điều

này, một mặt đó đem lại nguồn thu lớn hơn cho các doanh nghiệp Nhà

nƣớc mặt khác đó xoỏ bỏ đƣợc cơ chế cổ phần hoá khép kín trong các

doanh nghiệp. Từ tháng 3/2005, hệ thống giao dịch thứ cấp tại TTGDCK

Hà Nội dành cho các doanh nghiệp chƣa niêm yết theo cơ chế giao dịch

thoả thuận đó cú 5 cụng ty đăng ký với giá trị trên 1.280 tỷ đồng. Kết quả

này mới chỉ là bƣớc đầu khi tiến hành theo cơ chế mới song nó đó kớch

thớch đƣợc một lƣợng cầu lớn. Ngoài ra giao dịch trái phiếu chính phủ

cũng đó cú những thành cụng bƣớc đầu, đạt 205 tỷ đồng [51].

Dƣới sự điều tiết và quản lý của Nhà nƣớc, TTCK đó từng bƣớc

khẳng định đƣợc vị trí của mỡnh. Nếu nhƣ trong 4 năm đầu hoạt động tổng

số vốn TTCK huy động đƣợc là 77,5 tỷ đồng thỡ chỉ 3 năm sau, số vốn lƣu

động trên TTCK đó tăng lên đáng kể, thậm chí số vốn 4 năm đó chƣa bằng

tổng giá trị một phiên giao dịch thời gian này [57].

Đặc biệt, hai năm 2006 -2007 đó đánh dấu đỉnh cao của sự phát triển

TTCK Việt Nam. Năm 2006 là năm TTCK Việt Nam có bƣớc phát triển

đột biến, đặc biệt ấn tƣợng: giá trị vốn hoá của riêng thị trƣờng cổ phiếu

doanh nghiệp đó đạt 221.156 tỷ đồng (tƣơng đƣơng 14 tỷ USD), chiếm

22,7% GDP cũn trỏi phiếu cỏc loại đạt 70.000 tỷ đồng chiếm 7,7% GDP

[46, tr.1]. Hai luồng cung lớn đó đó tạo ra tỷ lệ vốn hoỏ thị trƣờng của

TTCK Việt Nam đạt 30,4% GDP năm 2006. Đến cuối năm 2007, khối

lƣợng chứng khoán đƣợc giao dịch trên thị trƣờng tập trung đạt khoảng



57



3.591 triệu chứng khoán với tổng giá trị giao dịch hơn 355.484 tỷ VNĐ,

với tỷ lệ vốn hoá thị trƣờng đạt 43% GDP của năm 2007 [26, tr.118-119].

Luồng thứ nhất hầu nhƣ không đáp ứng đủ cầu về chứng khoán trên

thị trƣờng, luồng thứ 2 riêng trái phiếu chính phủ đó gần 30.000 tỷ đồng.

Số tài khoản giao dịch của các NĐT tính đến cuối tháng 12/2007 là khoảng

300.000, tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2006 và trên 30 lần so với khi mới

khai trƣơng TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh. TTCK giữ đƣợc tốc độ

phát triển và sức thu hút vốn mạnh mẽ cho đến hết quý III năm 2007. Thậm

chí ngay trong tháng 7/2007, khi TTCK đang trong thời kỳ ảm đạm thỡ

nhiều cụng ty phỏt hành cổ phiếu cũng đó rất thành cụng. Điều này cho

thấy nhu cầu về chứng khoán của các doanh nghiệp làm ăn tốt vẫn ổn định.

Nhƣ trong đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp của Vinashin đầu năm

2007 với tổng giá trị 3.000 tỷ đồng đó đƣợc mua với lƣợng cầu gấp 3 lần

giá trị phát hành của công ty, trong đó 95% đƣợc mua bởi các NĐT nƣớc

ngoài. Cũng trong thời gian này Công ty tài chính dầu khí (PVFC), phát

hành trái phiếu doanh nghiệp 690 tỷ đồng (2006) và 1500 tỷ đồng (2007)

thỡ lƣợng cầu của các công ty: SSI, VIBank, BIDV... về trái phiếu của

PVFC đó vƣợt xa giá trị phát hành làm cho thời gian phát hành chỉ diễn ra

trong đúng một giờ [26, tr.120] .

Năm 2006 đánh dấu bƣớc phát triển đột biến của TTCK và TTCK

năm 2007 tiếp tục đƣợc đẩy mạnh, đạt những con số rất ấn tƣợng. Một

trong những nguyên nhân khiến 2 quý đầu năm 2007, TTCK Việt Nam

phát triển sôi động và núng bỏng là thỏng 11/2006 Việt Nam gia nhập

WTO. Sự kiện này nhƣ một “cú hích” đối với nền kinh tế Việt Nam nói

chung và TTCK nói riêng, mở ra một hƣớng đi mới cho nền kinh tế vỡ thế

nhu cầu về nguồn vốn lại càng trở nờn cấp thiết, lƣợng vốn mà TTCK huy

động đƣợc cũng tăng đột biến. Tính đến cuối tháng 3/2007, Vn-Index tăng

hơn 200% so với đầu năm 2006. Vào tháng 11/2006 chỉ số này là 660 điểm



58



thỡ đến ngày 12/03/2006 đạt đỉnh là 1.170,67 điểm và đến cuối tháng

3/2007 vẫn ở mức 1.100 điểm [50]. Điều này chứng tỏ tổng giá trị thị

trƣờng đó tăng lên mạnh mẽ, nguồn vốn đổ vào TTCK đó lờn tới đỉnh

điểm. Giải thích cho sự tăng đột biến về cầu chứng khoán là do TTCK quá

“nóng” đó mang đến lợi nhuận “kếch xù” cho bất kỳ một NĐT nào, kể cả

những NĐT nhỏ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, một lƣợng tiền lớn

trong dân cƣ đó đƣợc đổ dồn vào TTCK: nguồn tiền nhàn rỗi vốn đƣợc gửi

tiết kiệm hoặc cất giữ trong mỗi gia đỡnh; nguồn tiền đƣợc rút từ những

nơi đầu tƣ không có lợi nhuận lớn hoặc nhanh chóng nhƣ buôn bán, đầu tƣ

bất động sản; nguồn tiền từ việc thế chấp nhà cửa, đất đai cho ngân hàng...

Có thể nói, giai đoạn này hầu nhƣ tất cả các lƣợng tiền nhàn rỗi trong xó

hội đó đƣợc huy động vào TTCK, tạo ra một lƣợng cầu khổng lồ cho thị

trƣờng.

Nhƣ vậy, TTCK Việt Nam với sự có mặt và hoạt động của 2 sàn giao

dịch Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đó thu hỳt đƣợc sự quan tâm, chú

ý của đông đảo các NĐT cá nhân, tổ chức ở trong và ngoài nƣớc. Điều này

cho thấy TTCK Việt Nam đang dần trở thành một kênh dẫn vốn quan

trọng, góp phần giảm tải cho thị trƣờng tiền tệ vốn đó vận hành hết công

suất và hơn thế là tiến đến trở thành công cụ huy động vốn chủ yếu cho nền

kinh tế quốc dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những con số ấn tƣợng thể hiện nguồn vốn đổ

vào TTCK tăng mạnh cũng cho thấy giá trị thị trƣờng quá cao so với thực

tế, chứng tỏ TTCK đang chứa đựng nguy cơ khủng hoảng.

Sang quý III/2007, TTCK bắt đầu rơi vào thời kỳ ảm đạm, hàng loạt

các cổ phiếu niêm yết trên thị trƣờng đồng loạt giảm giá. Tâm lý các NĐT

nhỏ lẻ dao động đó ồ ạt bỏn thỏo cổ phiếu ra thị trƣờng, khiến thị trƣờng

mất cân bằng dẫn tới tổng giá trị thị trƣờng sụt giảm đáng kể. Song, đợt

“thoái trào” nghiêm trọng của TTCK là phải kể tới năm 2008. Do ảnh



59



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

×