1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học tự nhiên >

1 Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán (TTCK)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 146 trang )


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG

KHOÁN

1.1 Một số vấn đề cơ bản về thị trƣờng chứng khoán

(TTCK)

1.1.1 Lịch sử hỡnh thành TTCK

Cựng với quỏ trỡnh đi lên của nền kinh tế thế giới là sự phát triển

mạnh mẽ của TTCK. Không một ai có thể phủ nhận vai trũ to lớn của thị

trƣờng vốn đặc biệt này đối với nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế, TTCK

ra đời từ rất sớm, nhƣ một hệ quả tất yếu của nền kinh tế công nghiệp, ra

đời trƣớc cả khi các công ty cổ phần (CTCP) xuất hiện.

* TTCK trƣớc CTCP

Từ thời trung cổ, Tây Phƣơng đó bắt đầu manh nha những dấu hiệu

hỡnh thành TTCK. Tại những thành phố có vị trí địa lý thuận lợi, và khi

thƣơng nghiệp đó bắt đầu phát triển, các lái buôn và thƣơng gia tụ họp lại

trong các buổi chợ để thƣơng lƣợng trao đổi hàng hoá. Điều đặc biệt là

những cuộc thƣơng lƣợng này chỉ có sự trao đổi miệng với nhau, không

cần có giấy tờ cũng nhƣ không cần có hàng hoá hoặc mẫu mó trƣớc mặt.

Ban đầu đó chỉ là những cá nhân lẻ tẻ thoả hiệp với nhau, ngồi riêng ra một

nơi nào đó để thƣơng lƣợng. Dần dần sự việc này đƣợc mở rộng thờm và

cú nhiều ngƣời tham gia. Và những nơi toạ đàm, thƣơng lƣợng đó đó trở

thành một thị trƣờng đặc biệt với phộp tắc và quy luật riờng, thị trƣờng đó

từng có tên gọi là “thị trƣờng hè phố”, hay “chợ hè phố” [8, tr.17].

Những buổi chợ đầu tiên của các nhà buôn từ năm 1453 ở Bỉ vẫn cũn

đƣợc ngƣời ta nhớ đến, ngƣời tham dự những cuộc giao dịch ở đó đến từ

nhiều quốc gia khác nhau, đặc biệt là từ Italia [37, tr.26]. Mục tiờu chủ yếu

của họ là mua bỏn chứng khoỏn hoặc thoả thuận về những hợp đồng

thƣơng mại. Trên quảng trƣờng gần ngôi nhà một nhà buôn, nhà môi giới



13



Van Ber Buezo tại Bruges (Bỉ) các thƣơng gia từ nhiều nƣớc, chủ yếu là

ngƣời Ý đó thƣờng xuyên gặp gỡ để mua kỳ phiếu nƣớc ngoài và trao đổi

thông tin buôn bán kinh doanh.

Huy hiệu dũng họ của nhà mụi giới này nằm trên đỉnh ngôi nhà và

mang hỡnh ba cỏi “tỳi da”. Tiếng Latin, cái ví tiền (túi da) là Bursa, tiếng

Pháp là Bourse. Cái tên Boerse cũng có nghĩa là Bourse (mậu dịch thị

trƣờng) đƣợc xem nhƣ xuất xứ từ bấy giờ. Các thƣơng gia họp nhau tại

Bourse để bàn bạc, thƣơng lƣợng về những món hàng họ muốn bán hoặc

muốn mua. Chỉ cần nói một tiếng mua là dịch vụ đó kết thỳc. Năm 1547,

thị trấn Bruges mất đi sự phồn vinh vỡ eo biển Eva dẫn tàu bố vào thị trấn

này bị cỏt lấp mất. Tuy nhiên, mầm mống về một TTCK đƣợc hỡnh thành

từ Bỉ đó bắt đầu lan rộng ra các nƣớc phát triển thƣơng nghiệp khác [4,

tr.57].

Năm 1531, tại Antverpen ngƣời ta đó triển khai cỏc nghiệp vụ về

chứng khoỏn (mua bỏn cỏc khoản nợ của Chớnh phủ Hà Lan, Anh, Bồ Đào

Nha và Pháp). Mậu dịch thị trƣờng này phát triển đến nỗi Theme.SS

Geshan, tài chánh đại thần của Anh Quốc đó phải đến tận nơi quan sát

trƣớc khi thiết lập một mậu dịch thị trƣờng tại Luân Đôn vào giữa thế kỷ

XVI mà ngày nay đƣợc gọi là Stock Exchange (hay cũn gọi là Sở giao dịch

chứng khoỏn)1.

Khi Tây Ban Nha xâm chiếm và tƣớc đoạt Antverpen, vua Tây Ban

Nha đó khụng cho phộp buụn bỏn chứng khoỏn và cỏc khoản nợ tiền tệ dài

hạn của họ thỡ TTCK Antverpen đó ngừng hoạt động cho đến cuối thế kỷ

XVI. Theo mẫu thị trƣờng này ngƣời ta lập ra đƣợc các TTCK khác ở Lion

(năm 1545), London (năm 1566) [37, tr28]. Nhƣ vậy, cho tới thế kỷ XVI



1



Sở giao dịch chứng khoỏn: là một tổ chức tự quản của cỏc nhà mụi giới chứng khoỏn, cú tƣ cỏch phỏp

nhõn, tự chủ về tài chớnh, cú nhiệm vụ tổ chức mua bỏn, trao đổi chứng khoỏn. Đây là thị trƣờng chớnh

thức, ở đó diễn ra hoạt động mua bỏn cỏc chứng khoỏn đƣợc niờm yết trong danh sỏch của thị trƣờng.



14



TTCK đó đƣợc hỡnh theo đúng nghĩa của nó và đó là các TTCK trƣớc

công ty cổ phần (CTCP).

Dù mới ra đời nhƣng TTCK đó nhanh chóng khẳng định đƣợc vị trí

của mỡnh, giữ vai trũ quan trọng trong thƣơng mại thế giới. Năm 1608, thị

trƣờng đƣợc lập ra ở Amsterdam, do kinh tế Hà Lan là một trong những

nền kinh tế phát triển nhất Châu Âu lúc bấy giờ, phần lớn các chứng khoán

đƣợc mua bán tại đây. Chứng khoán đƣợc đem ra mua bán chủ yếu là

những hối phiếu, tín phiếu, trái phiếu Chính phủ… của Hà Lan, Vƣơng

quốc Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp… Đến thế kỷ XVII, thị trƣờng

chứng khoán Amsterdam đó cú 44 loại chứng khoỏn (cổ phiếu và trái

phiếu). Cho đến đầu thế kỷ XXI, Sở giao dịch chứng khoỏn (SGDCK)

Amsterdam vẫn cũn giữ đƣợc tính chất TTCK tổng hợp: thị trƣờng vốn, thị

trƣờng tiền tệ và ngoại tệ trong khi đó ở Mỹ - Anh các thị trƣờng vốn đó

đƣợc tách biệt khỏi thị trƣờng hàng hoá [12, tr.37].

Có thể nói TTCK đó ra đời từ rất sớm, phát sinh một cách tự phát và

là kết quả trực tiếp của phân công lao động xó hội. Từ những đũi hỏi về

tớch tụ, tập trung tƣ bản cho sản xuất và tỏi sản xuất nền kinh tế hàng hoỏ

mà TTCK đó dần đƣợc hỡnh thành. Trong buổi đầu sơ khai đó, Nhà nƣớc

không can thiệp và không tham gia trực tiếp vào quá trỡnh hỡnh thành của

TTCK. Vai trũ của nhà nƣớc chỉ hạn chế thông qua việc huy động các

phƣơng tiện tài chính phục vụ các mục tiêu kinh tế - xó hội. Đó là đặc

trƣng của TTCK trƣớc CTCP.

* TTCK khi cú cụng ty cổ phần (CTCP)

Cuối thế kỷ XVIII, tại Châu Âu xuất hiện một số ngành công nghiệp

mới nhờ những phát kiến ra máy móc hiện đại hơn trƣớc. Nhiều ngành kinh

tế với việc ứng dụng công nghệ tiên tiến ra đời cần rất nhiều vốn để đầu tƣ

mua sắm, phát triển sản xuất. Để tập trung đƣợc mọi nguồn lực trong xó



15



hội, một sỏng kiến mới trong kinh doanh là thành lập CTCP. Đây đƣợc coi

là bƣớc đột phá vĩ đại của kỷ nguyên công nghiệp trên toàn thế giới.

CTCP đƣợc thành lập do một nhóm ngƣời có cùng chung ý tƣởng

đầu tƣ, kiếm lời trong một hoạt động kinh doanh đó cựng nhau gúp vốn

cựng thành lập. Tất cả số vốn gúp trong cụng ty đƣợc chia thành nhiều

phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mỗi ngƣời giữ một hoặc nhiều văn tự

chứng thực cho sự đóng góp cổ phần của mỡnh, cỏc văn tự này gọi là cổ

phiếu. Những ngƣời có cổ phần đóng góp là những cổ đông.

Trƣớc khi có CTCP, việc bán trái phiếu và thƣơng phiếu chỉ xuất

hiện khi các chủ sở hữu chúng có nhu cầu tiền mặt. Việc di chuyển đầu tƣ

kiếm lời từ công trái hay thƣơng phiếu khác là rất hón hữu vỡ mức lói suất

cỏc loại trỏi phiếu về cơ bản là tƣơng đƣơng nhau và độ an toàn cũng vậy.

TTCK do đó chỉ hoạt động ở quy mô nhỏ.

Với việc xuất hiện của CTCP, việc giao dịch mua bán chứng khoán

đó bựng nổ và bƣớc sang một giai đoạn hoàn toàn mới. CTCP có ảnh

hƣởng mang tính cách mạng là làm thay đổi toàn bộ hoạt động TTCK. Nếu

nhƣ trƣớc đây TTCK chỉ là nơi giao dịch các trái phiếu, thƣơng phiếu thỡ

giờ đây nó bao gồm thờm cả một loạt chứng khoỏn cú sức hấp dẫn hơn

nhiều lần, đó là các cổ phiếu.

Ở Anh, sở giao dịch vốn đó xuất hiện năm 1773; ở Mỹ cơ sở của sở

giao dịch vốn đƣợc coi là thoả thuận của 24 môi giới chứng khoán (giao

dịch viên) năm 1792 về mức hoa hồng [37, tr.28]. Ở Paris, Berlin, Viờn,

TTCK đó xuất hiện vào thế kỷ XVIII. Sự hƣng thịnh của TTCK vào thế kỷ

XIX liờn quan tới sự phỏt triển rộng rói của nội ngoại thƣơng trên cơ sở sử

dụng cả phƣơng tiện hiện đại về giao thông và liên lạc các sở giao dịch

hàng hoá.



16



Từ thế kỷ XX, TTCK New York chiếm vai trũ quan trọng nhất, năm

1980 các chứng khoán lƣu hành ở đây lên đến 397,7 tỷ USD. Tiếp theo là

cỏc Sở giao dịch chứng khoỏn lớn ở London, Paris, Frankfurt …[37, tr.29]

Hiện nay, TTCK đó phỏt triển mạnh mẽ ở hầu hết trong cỏc nƣớc

công nghiệp hàng đầu: Mỹ, Anh, Nhật, Đức, Pháp … Bên cạnh đó, hơn 40

nƣớc đang phát triển đó thành lập TTCK.

Nhƣ vậy, TTCK đƣợc hỡnh thành và phỏt triển do yờu cầu khỏch

quan của nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Trong sự phỏt triển của thị

trƣờng tài chính (TTTC), thị trƣờng tiền tệ đó đƣợc hỡnh thành trƣớc, chủ

yếu nhằm giải quyết nhu cầu về vốn ngắn hạn. Cùng với sự phát triển

nhanh chóng của nền sản xuất xó hội, nhu cầu bức thiết về một thị trƣờng

vốn trung và dài hạn đó đũi hỏi hỡnh thành thị trƣờng vốn và TTCK đó ra

đời. TTCK phát triển khá mạnh vào nửa cuối thế kỷ XIX trong mối liên hệ

chặt chẽ với nội thƣơng và ngoại thƣơng trên cơ sở các phƣơng tiện hiện

đại về giao thông, liên lạc thông tin giữa các thị trƣờng. Lịch sử phát triển

các TTCK trên thế giới đó trải qua những thời kỳ biến động khác nhau, lúc

thăng, lúc trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 – 1913,

TTCK phát triển mạnh mẽ đồng thời với sự tăng trƣởng của nền kinh tế.

Nhƣng đến năm 1929, cuộc tổng khủng hoảng kinh tế thế giới đó làm cho

cỏc TTCK New York, TTCK Tõy Âu, TTCK Bắc Âu, Nhật Bản… lõm vào

khủng hoảng, làm mất lũng tin của cỏc nhà đầu tƣ [38, tr.16]. Sau chiến

tranh thế giới thứ 2, các TTCK đƣợc phục hồi và phát triển. Nhƣng cuộc

khủng hoảng tài chính năm 1987 một lần nữa làm TTCK chao đảo và hậu

quả của nú cũng khụng thua kộm gỡ cuộc khủng hoảng năm 1929 mang lại.

Sau đó, TTCK tiếp tục phục hồi và phát triển cho tới thời gian gần đây, vào

cuối năm 1997 đầu năm 1998, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á

lại một lần nữa làm cho TTCK các nƣớc trong khu vực khủng hoảng trầm

trọng và phải đóng cửa. Cuộc khủng hoảng này cũn tác động mạnh tới các



17



TTCK hùng mạnh trong và ngoài khu vực nhƣ ở New York, Nhật Bản…

hậu qủa đến nay vẫn chƣa khắc phục đƣợc hết [38, tr.17].

Trải qua cỏc cuộc khủng hoảng, cuối cựng TTCK tiếp tục đƣợc phục

hồi và phỏt triển, dần trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu trong

đời sống kinh tế của các nƣớc vận hành theo cơ chế thị trƣờng. Hiện nay,

TTCK đó phỏt triển ở hầu khắp các nƣớc công nghiệp châu Âu, châu Mỹ,

cỏc nƣớc có nền kinh tế mới phát triển ở các châu lục trên thế giới và ngày

càng chứng tỏ vai trũ to lớn trong việc huy động các nguồn lực xó hội để

phát triển kinh tế đất nƣớc và hƣớng ra hội nhập với bên ngoài.



1.1.2 Một số vấn đề cơ bản

a, Những khỏi niệm chung

TTCK thế giới đó tồn tại và phỏt triển hàng trăm năm, trải dài trên

phạm vi 160 nƣớc và vùng lónh thổ. Mặc dự phải trải qua nhiều thăng trầm

lịch sử song cho đến nay, TTCK luôn vƣợt qua đƣợc mọi thử thách để tồn

tại và phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn. Đối với bất cứ một quốc gia phát

triển và đang phát triển nào, TTCK cũng đó và đang chiếm một vị trí quan

trọng, không thể thay thế. Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, TTCK

đƣợc coi nhƣ thƣớc đo phản ánh sự phát triển hay suy thoỏi của nền kinh tế

của một quốc gia, thậm chí phản ánh trực tiếp những biến động hàng ngày

của nền kinh tế đó.

TTCK là bộ phận chủ yếu của TTTC đồng thời xuất phát từ phƣơng

thức thoả món nhu cầu về tƣ bản, TTCK đó trở thành một trong những

phƣơng thức huy động vốn hữu hiệu và chứng khoán trở thành đối tƣợng

kinh doanh chủ yếu trên thị trƣờng vốn. Do đó, trong thực tế, ngƣời ta hiểu

rằng “thị trƣờng vốn” và “TTCK” về cơ bản là trùng nhau (thị trƣờng vốn

cũng chính là TTCK). Thực chất TTCK bao gồm những nhân tố của cả thị



18



trƣờng tiền tệ lẫn thị trƣờng vốn1, mà ở đó việc huy động, phân phối và

phân phối lại những nguồn dự trữ tài chính tiền tệ dƣới hỡnh thức chứng

khoỏn đƣợc thực hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động đầu tƣ, tính dụng,

bảo hiểm … Có thể xác định vị trí của TTCK trong co cấu của TTTC theo

sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1: Mụ hỡnh cấu trỳc của TTTC



(Nguồn: Nguyễn Minh Đức, Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế

chuyển đổi, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2006, Tr.29)



Sơ đồ trên đây chỉ rừ mối quan hệ giữa TTCK với những bộ phận

khác nhau của TTTC. Đó cũng chính là mối quan hệ với thị trƣờng vốn, thị

trƣờng tiền tệ - những nhân tố chủ yếu của TTTC.

Cấu thành nên TTCK có rất nhiều yếu tố. Những yếu tố đó đƣợc coi

là các công cụ của TTCK, bao gồm: cổ phiếu, trỏi phiếu, chứng chỉ quỹ,

chỉ số chứng khoỏn...

Từ những cơ sở phân tích trên có thể rút ra những khái niệm cơ bản

sau:

1



Thị trƣờng tiền tệ: là thị trƣờng vốn ngắn hạn, hoạt động của thị trƣờng tiền tệ diễn ra chủ yếu thông

qua hoạt động của hệ thống Ngõn hàng và cỏc tổ chức tớn dụng.

Thị trƣờng vốn: là thị trƣờng cho các khoản vốn dài hạn. Thị trƣờng này cung cấp tài chính cho các

khoản đầu tƣ dài hạn của Chính phủ, của các doanh nghiệp và của các hộ gia đỡnh. Thị trƣờng vốn gồm

có thị trƣờng vay nợ dài hạn và TTCK.



19



Chứng khoỏn là giấy tờ chứng nhận quyền về tài sản hoặc quyền ghi

nợ. Đây cũng là loại giấy tờ hợp pháp chứng nhận ngƣời nắm giữ chứng

khoán có quyền sở hữu về tài sản và quyền thu nợ, bao gồm: cổ phiếu, trái

phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tƣ chứng khoán và các chứng chỉ khác theo quy

định của pháp luật. Theo tiêu chuẩn pháp lý thỡ chứng khoỏn đƣợc chia

thành 2 loại, chứng khoán vô danh và chứng khoán ghi danh.

Chứng khoỏn vụ danh là loại chứng khoỏn khụng ghi rừ họ tờn của

chủ sở hữu. Việc chuyển nhƣợng loại chứng khoán này rất đơn giản, dễ

dàng, không cần phải có những thủ tục rƣờm rà mà có thể trao tay.

Chứng khoỏn ghi danh là loại chứng khoỏn cú ghi rừ họ tờn của chủ

sở hữu. Việc chuyển nhƣợng loại chứng khoán này đƣợc thực hiện bằng

thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành, nhiều khi cần có sự xác nhận trƣớc.

TTCK theo nghĩa rộng đƣợc gọi là thị trƣờng vốn (Capital market),

là thị trƣờng tạo lập và cung ứng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Một

cách cụ thể hơn, TTCK là nơi giao dịch mua bán các chứng khoán trung và

dài hạn, bao gồm chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu đó đƣợc phát hành và

đang lƣu hành trên thị trƣờng.

Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần trong một công ty, thể hiện sự

sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của công ty đó. Cổ

phiếu có thể đƣợc phát hành dƣới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi

sổ.

Ngƣời sở hữu cổ phiếu đƣợc gọi là cổ đông của công ty, họ đƣợc

phân chia phần lợi nhuận cũng nhƣ gánh chịu phần thua lỗ của công ty theo

tỷ lệ cổ phần mà mỡnh nắm giữ. Giỏ trị cổ phần của cụng ty đƣợc phản ánh

thông qua giá cổ phiếu trên TTCK. Thông thƣờng, giá cổ phiếu sẽ đi lên

khi công ty làm ăn phát đạt và ngƣợc lại.

Theo tớnh chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông

thỡ cú hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu thƣờng và cổ phiếu ƣu đói.



20



Cổ phiếu thƣờng: là loại cổ phiếu mà lợi tức của nó phụ thuộc vào

mức lợi nhuận thu đƣợc của công ty, tức là công ty không cố định mức số

lói sẽ đƣợc chia vào cuối năm quyết toán. Mỗi cổ phiếu thƣờng thể hiện

quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công ty. Số lƣợng cổ phiếu mà cổ đông

nắm càng nhiều thỡ quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công ty càng lớn.

Cổ phiếu ƣu đói hay cũn gọi là cổ phiếu đặc quyền: là loại cổ phiếu

đƣợc hƣởng những quyền ƣu tiên. Những quyền ƣu tiên đó là: đƣợc hƣởng

một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm (thông thƣờng cổ tức

này đƣợc in trên cổ phiếu); đƣợc ƣu tiên chia lói cổ phần trƣớc loại cổ

phiếu thƣờng và đƣợc ƣu tiên phân chia tài sản cũn lại của cụng ty khi cụng

ty phỏ sản trƣớc loại cổ phiếu thƣờng. Tuy nhiên, không giống với cổ phiếu

thƣờng, ngƣời mua cổ phiếu ƣu đói khụng đƣợc hƣởng quyền bỏ phiếu để

bầu ra Hội đồng quản trị, ban kiểm soát công ty.

Trỏi phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của ngƣời phát

hành (ngƣời vay tiền) phải trả cho ngƣời nắm giữ chứng khoán (ngƣời cho

vay) một khoản tiền xác định, trái phiếu thƣờng có kỳ hạn nhất định. Khi

đến hạn, nhà phát hành sẽ hoàn trả tiền gốc. Tiền lói sẽ đƣợc trả định kỳ 6

tháng hoặc 1 năm trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Trái phiếu niêm yết có

thể tự do mua bán trên TTCK suốt kỳ hạn của trái phiếu. Trái phiếu đƣợc

phát hành ở các thị trƣờng vốn khác nhau bởi các tổ chức công nhƣ: các tổ

chức đa quốc gia, Chính phủ của một nƣớc, các công ty … Dựa vào đó

ngƣời ta chia trái phiếu thành: Trái phiếu chính phủ (công trái), trái phiếu

công ty, trái phiếu tài chính, trái phiếu quốc tế…

So với cổ phiếu, trái phiếu có những đặc điểm khác biệt cơ bản về

thu nhập định kỳ, lói suất trỏi phiếu đƣợc ấn định ngay từ khi phát hành

trong khi cổ tức của cổ phiếu lại biến động tuỳ theo kết quả hoạt động kinh

doanh của công ty phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu thƣờng có mức độ rủi

ro thấp hơn nên giá cũng ít bị biến động hơn.



21



Chứng khoán có thể chuyển đổi là loại chứng khoán cho phép ngƣời

nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định có thể

đổi nó lấy một chứng khoán khác. Thông thƣờng cổ phiếu ƣu đói và trỏi

phiếu chuyển đổi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thƣờng trong những

điều kiện nhất định.

Cỏc cụng cụ phỏi sinh: là những công cụ đƣợc phát hành trên cơ sở

những công cụ đó cú nhƣ: cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác

nhau: phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Những công cụ

phát sinh có thể là quyền lựa chọn, quyền mua trƣớc, chứng quyền, hoạt

động kỳ hạn, hợp đồng tƣơng lai.

Chứng chỉ quỹ (CCQ) đầu tư chứng khoán là sự xác nhận khoản vốn

đóng góp vào quỹ và quyền đƣợc hƣởng các thu nhập từ hoạt động của

quỹ. Hiện nay ở Việt Nam có 4 quỹ đầu tƣ nhƣ vậy: Công ty liên doanh

quản lý quỹ đầu tƣ chứng khoán Việt Nam (VietFun Management), CTCP

quản lý quỹ đầu tƣ Thành Việt; công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tƣ

Prudential Việt Nam và Công ty TNHH Quản lý quỹ Manulife Việt Nam.

Chỉ số chứng khoỏn (Index) chỉ số chứng khoán có thể hiểu đơn giản

là thƣớc đo bỡnh quõn giỏ cỏc chứng khoỏn giao dịch trờn thị trƣờng. Các

nhà đầu tƣ có thể căn cứ vào các chỉ số chứng khoán để xác định hiệu quả

đầu tƣ của mỡnh. Lấy vớ dụ, hụm nay chỉ số chứng khoán Việt Nam (VN

Index) tăng từ 150 điểm lên 152 điểm, tức là tăng 1,3% trong ngày. Nếu 1

cổ phiếu ABC cụ thể tăng từ 50.000 VNĐ/cổ phiếu lên 52.000VNĐ/cổ

phiếu, tức tăng 4% cao hơn mức tăng 1,3% của giá cổ phiếu chung trên thị

trƣờng thỡ cú thể núi cổ phiếu ABC đó hoạt động tốt hơn so với bỡnh quõn

thị trƣờng trong ngày hôm nay [25, tr.97].

Nhỡn chung, chỉ số chứng khoỏn rất nhạy cảm với những biến động

về kinh tế, chính trị, xó hội của từng nƣớc. Vỡ thế việc xõy dựng chỉ số

chứng khoỏn của một nƣớc phải phản ánh đƣợc mọi trạng thái dao động



22



của thị trƣờng. Thông thƣờng, ngƣời ta xây dựng chỉ số chứng khoán trên

cơ sở so sánh giá chứng khoán (cổ phiếu) bỡnh quõn hiện tại với giỏ chứng

khoỏn (cổ phiếu) bỡnh quõn thời kỳ gốc của những cụng ty cú cổ phiếu

chất lƣợng cao và đƣợc mua bán với số lƣợng lớn.

b) Chức năng của TTCK

Chức năng cơ bản đầu tiên của TTCK là chức năng huy động vốn

đầu tƣ cho nền kinh tế, đây cũng đƣợc coi là chức năng quan trọng nhất của

TTCK. Thông qua các công cụ tài chính của mỡnh (cổ phiếu, trái phiếu,

CCQ), TTCK sẽ thu hút và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền

kinh tế để tài trợ cho các dự án đầu tƣ dài hạn; cho các nhu cầu tạo vốn,

tăng vốn của các doanh nghiệp và chính phủ. Bên cạnh đó thông qua TTCK

Chính phủ và chớnh quyền ở các địa phƣơng cũng huy động vốn cho mục

đích sử dụng và đầu tƣ phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ nhu cầu chung

của xó hội. TTCK cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài. Đây là yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực

trong quốc gia cũng nhƣ trên phạm vi quốc tế.

Chức năng quan trọng nữa của TTCK là cung cấp môi trƣờng đầu tƣ

cho công chúng. TTCK cung cấp cho công chúng một môi trƣờng đầu tƣ

lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên

thị trƣờng luôn có những đặc thù khác nhau nhƣ: tính chất, khả năng sinh

lời, độ rủi ro … Qua đó, nhà đầu tƣ (NĐT) có thể lựa chọn các loại hàng

hoá phù hợp với khả năng tài chính, nhu cầu, mục tiêu đầu tƣ của mỡnh.

Chớnh vỡ vậy, TTCK đó gúp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc

gia.

TTCK cũn cú chức năng tạo tính thanh khoản1 cho các chứng khoán.

Thông qua TTCK, các NĐT có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán sở

hữu thành tiền khi có nhu cầu. Khả năng thanh khoản là một trong những

1



Tớnh thanh khoản: Là khả năng chuyển đổi từ chứng khoán sang tiền mặt. Tính thanh khoản càng cao

thỡ khả năng chuyển từ chứng khoỏn sang tiền càng dễ dàng.



23



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

×