Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 146 trang )
trị ghi trên sổ kế toán; hoạt động kinh doanh 2 năm liền trƣớc năm đăng ký
niờm yết phải cú lói và khụng cú lỗ luỹ kế tớnh đến năm đăng ký niêm yết;
công khai mọi khoản nợ của công ty đối với các thành viên: Hội đồng quản
trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó giám đốc hoặc Phó
tổng giám đốc, Kế toán trƣởng, Cổ đông lớn hoặc những ngƣời có liên
quan… Với việc niêm yết các trái phiếu cũng đƣợc quy định chặt chẽ nhƣ
vậy (Phụ lục 2). Khi đó niờm yết rồi, cỏc cụng ty này tiếp tục phải chịu sự
kiểm tra, giỏm sỏt của SGDCK, UBCKNN. Ngoài ra cũn chịu sự chi phối
của cỏc cụng ty kiểm toỏn độc lập và các công ty đánh giá xếp hạng [54].
Chớnh việc cụ thể hoá các quy định thành các văn bản phỏp luật,
việc giám sát liên tục của các tổ chức Nhà nƣớc đó tạo cho cỏc doanh
nghiệp quan tõm tới hiệu quả và tuõn thủ luật phỏp hơn. Bởi lẽ chỉ có nhƣ
vậy các chứng khoán của họ mới đƣợc thị trƣờng chấp nhận và mới thu hút
đƣợc nguồn vốn từ các NĐT. Để tạo ra khả năng hấp dẫn của chứng khoán
đối với công chúng, không có cách nào khác là các doanh nghiệp luôn phải
tính toán để quản lý một cỏch cú hiệu quả, trờn cơ sở đó không ngừng phát
huy tính sáng tạo của doanh nghiệp
Đồng thời, khi tham gia vào TTCK các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt là các công ty niêm yết đó bắt đầu hỡnh thành cung cỏch và nề nếp
mới, hoạt động tích cực cho phù hợp với những yêu cầu, nguyên tắc quản
lý của Nhà nƣớc. Hơn nữa, do luôn phải đƣa những thông tin cơ bản về
tỡnh hỡnh hoạt động của công ty ra công chúng nên điều này đó phần nào
thỳc đẩy các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, có trách nhiệm hơn
với uy tín của bản thân doanh nghiệp và trách nhiệm với cộng đồng.
Cơ chế hoạt động của CTCP đó cho phộp chủ sở hữu chứng khoỏn
cú quyền tham gia điều hành và quản lý cụng ty. Thụng qua việc nắm giữ
chứng khoán có quyền biểu quyết, các chủ sở hữu chứng khoán sẽ tham gia
hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành công ty, sẽ chịu trách nhiệm
89
về kết quả kinh doanh cũng nhƣ xu hƣớng phát triển của công ty. Chính
điều này đó cho phộp cụng ty luụn tỡm ra giải pháp làm ăn có hiệu quả và
phát huy tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp.
Khi chƣa tham gia TTCK, các doanh nghiệp chỉ đƣợc biết đến bởi
những ngƣời tham gia sỏng lập và giá trị cổ phiếu của các doanh nghiệp đó
chỉ chịu sự tác động của những ngƣời nắm giữ nó. Tuy nhiên, khi cổ phiếu
của các doanh nghiệp đƣợc niêm yết trên các Sàn giao dịch chứng khoán
cũng là lúc giá trị của nó bị chi phối bởi thị trƣờng hàng hoá, bởi quy luật
cung - cầu và bởi sự đánh giá của các tổ chức tín dụng trong nƣớc cũng nhƣ
nƣớc ngoài. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải có một chiến lƣợc
kinh doanh có hiệu quả, hoạt động minh bạch rừ ràng hơn. Do đó, vị thế
của cụng ty đó khụng ngừng đƣợc nâng cao trong nền kinh tế và ngƣợc lại,
thông qua thị trƣờng, các công ty niờm yết cũn tận dụng đƣợc lợi thế mà thị
trƣờng mang lại. Sau một thời gian niêm yết, đăng ký trờn TTCK nếu cỏc
cụng ty niờm yết đều có kết quả kinh doanh khả quan, các chỉ tiêu doanh
thu và lợi nhuận tăng trƣởng khá; chỉ tiêu lợi nhuận đạt khoảng 9%, chỉ
tiờu thị giỏ trờn thu nhập một cổ phiếu (P/E) trung bỡnh đạt 22,7 lần thỡ
tờn tuổi, hỡnh ảnh và cỏc sản phẩm dịch vụ của cụng ty niờm yết sẽ trở nờn
quen thuộc với cụng chỳng đầu tƣ, mở ra cơ hội thu hút một luồng vốn
trung và dài hạn cho các kế hoạch kinh doanh, phỏt triển của cụng ty [38,
tr.103].
Nhƣ vậy, TTCK đó mang lại cho cỏc doanh nghiệp trong nƣớc một
cơ hội lớn để hoàn thiện hơn nữa hoạt động kinh doanh và phát triển. Một
mặt, TTCK là kênh dẫn vốn lâu dài và bền vững cho các doanh nghiệp
niêm yết, tạo điều kiện để các công ty mở rộng hơn nữa các kế hoạch sản
xuất, chinh phục thị trƣờng của mỡnh; mặt khỏc, TTCK cũng trở thành cơ
sở để điều tiết, giám sát những hoạt động của các doanh nghiệp, trên cơ sở
90
đó hƣớng các doanh nghiệp hoạt động một cách chuyên nghiệp và hoàn
thiện theo đúng định hƣớng xó hội chủ nghĩa của Nhà nƣớc.
Không chỉ làm cho các công ty hoạt động hiệu quả hơn, TTCK cũn
là cụng cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ biểu của nền
kinh tế.
TTCK là nơi cung cấp nhanh nhất mọi thông tin về chứng khoán.
TTCK là một công cụ tài chính quan trọng để huy động vốn và đƣa đồng
vốn của doanh nghiệp, ngƣời đầu tƣ trong toàn xó hội đến những nơi sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là một thể chế tài chính bậc cao, rất nhạy
cảm nên vừa là cơ hội lại vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp và các
nhà đầu tƣ. Cũng chính vỡ tớnh chất nhạy cảm này mà TTCK trở thành
cụng cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ biểu của nền kinh
tế.
TTCK phản ỏnh tỡnh trạng của cỏc doanh nghiệp và của cả nền kinh
tế quốc gia. Các thị giá chứng khoán thể hiện thƣờng xuyên trên thị trƣờng
đó phản ỏnh giỏ trị phần tài sản Cú của cỏc doanh nghiệp trờn cơ sở đánh
giá thực trạng của doanh nghiệp, mức độ đầu tƣ, trạng thái kinh tế. Sự tăng
giá của các cổ phiếu, trái phiếu ở một công ty cho thấy sức cạnh tranh của
công ty là rất mạnh. Công ty đó có đầy đủ triển vọng kinh doanh trong
tƣơng lai và có sự phân phối lợi nhuận tƣơng đối cao. Ngƣợc lại nếu giá
các cổ phiếu, trái phiếu hạ thấp, có nghĩa là NĐT đó giảm lũng tin đối với
công ty, cho rằng sức cạnh tranh của công ty không cũn mạnh nhƣ trƣớc
nữa. Và trong tƣơng lai, khả năng kinh doanh của công ty đó không cũn
sỏng sủa, lợi nhuận giảm thậm chớ cũn bị tổn thất, mức phõn phối cổ tức
khú đƣợc đảm bảo. Điều này cho thấy, TTCK trong quỏ trỡnh vận hành của
mỡnh đó phản ỏnh khỏch quan thực trạng kinh doanh, viễn cảnh phỏt triển,
thực trạng vốn và sức cạnh tranh trờn thị trƣờng của một công ty, doanh
nghiệp [27, tr.40].
91
Hơn nữa, qua hoạt động của các công ty, doanh nghiệp cũn cú thể
đánh giá sức mua - bán trên thị trƣờng, hay nói một cách khác đó là khả
năng cung - cầu của nền kinh tế tƣơng đối mạnh. Khi TTCK đi lên, điều đó
cho thấy khả năng cung - cầu về chứng khoán mạnh và ổn định. Mà để
TTCK tăng trƣởng tốt thỡ các công cụ tài chính của đất nƣớc phải mạnh.
Điều này thể hiện trên những lĩnh vực: các ngân hàng thƣơng mại hoạt
động tốt, các định chế tài chính phù hợp với môi trƣờng đầu tƣ trong nƣớc
và đầu tƣ nƣớc ngoài, các chính sách ngoại tệ...
Nhƣ vậy, có thể thấy, TTCK không chỉ phản ánh khả năng hoạt động
kinh doanh của một hay vài công ty mà cũn phản ỏnh khả năng, tốc độ của
hầu hết các công cụ tài chính của nền kinh tế đất nƣớc. Chính vỡ thế,
TTCK cũn là phong vũ biểu của nền kinh tế quốc gia, giỳp ngƣời đầu tƣ và
những ngƣời quản lý cú cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tƣơng lai của
nền kinh tế.
Diễn biến của TTCK và khái quát hơn là chỉ số chứng khoán đó phản
ỏnh thụng tin đa dạng, nhiều chiều cho ngƣời đầu tƣ trƣớc diễn biến của
các rủi ro tiền tệ (nhƣ mức độ lạm phát dự đoán) và rủi ro tài chính. TTCK
cũn phản ỏnh rất nhạy cảm trƣớc các chính sách kinh tế vĩ mô, các biến
động của nền kinh tế. Cách mà Chính phủ điều tiết nền kinh tế vĩ mô là can
thiệp, tham gia vào việc mua bán công khai trên TTCK. Chính phủ mà cụ
thể ở đây là Ngân hàng trung ƣơng với vai trũ điều hoà lƣu thông tiền tệ.
Ngân hàng trung ƣơng tiến hành việc mua bán các chứng khoán có giá trên
thị trƣờng nhằm thay đổi lƣợng tiền cung ứng, qua đó điều tiết đƣợc mối
quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu xó hội, kiểm soỏt đƣợc lạm phát, đảm
bảo sự vận hành ổn định cho nền kinh tế. Vỡ thế, cỏc nhà hoạch định chính
sách và quản lý thƣờng thông qua TTCK để phân tích, dự đoán, đề ra các
chính sách điều tiết kinh tế và phƣơng pháp quản lý thớch hợp, qua đó mà
tác động tới nền kinh tế quốc dân [14, tr.21-22].
92
Có những thời điểm, hầu nhƣ tất cả các chỉ số chứng khoán trên sàn
đều tăng một cách mạnh mẽ, tiêu biểu là giai đoạn cuối năm 2006 - đầu
năm 2007. Và để giải thích cho hiện tƣợng đó là do Việt Nam chính thức
gia nhập WTO, một tổ chức thƣơng mại lớn của quốc tế. Để gia nhập tổ
chức này, Việt Nam đó phải trải qua một quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế lõu
dài và ngay lập tức những cơ hội và thách thức khi tham gia vào WTO
đƣợc phản ỏnh rừ nột qua kờnh chứng khoỏn, mở ra một thời kỳ phát triển
sôi động, mạnh mẽ của tất cả các ngành kinh tế đất nƣớc.
Nhƣ vậy, TTCK là cầu nối giữa cung - cầu về vốn, giữa đầu cơ nâng
giá và đầu cơ hạ giá chứng khoán, giữa nhu cầu vay vốn dài hạn và các
hoạt động cho vay ngắn hạn mà nhiều nhà đầu tƣ ƣa thích. Rừ ràng, với
cỏch thức hoạt động mềm dẻo linh hoạt của TTCK, TTCK đó phỏt huy vai
trũ tớch cực và ý nghĩa quan trọng đối với nề kinh tế phát triển theo cơ chế
thị trƣờng.
Kết luận chương
So với các nƣớc phát triển, TTCK Việt Nam cũn nhỏ bộ về quy mụ,
thời gian hoạt động chƣa lâu song đó sớm bộc lộ đƣợc những mặt tích cực
trong nền kinh tế đất nƣớc. Ở một khía cạnh nào đó, TTCK ra đời đó tỏc
động mạnh mẽ tới tiến trỡnh phỏt triển, hội nhập quốc tế của đất nƣớc.
TTCK ra đời trong bối cảnh nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng
trƣởng mạnh, nhu cầu về vốn cao. Vỡ thế với tƣ cách là phƣơng thức khơi
thông nguồn vốn đầu tƣ, TTCK đó nhanh chúng chiếm một vị trớ quan
trọng trong nền kinh tế. TTCK đƣợc thành lập đó nõng cao khả năng thu
hỳt nguồn tiền nhàn rỗi trong dõn chỳng và khắc phục những hạn chế trong
cung ứng nguồn vốn của cỏc ngõn hàng. Cùng với khả năng cung ứng
nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, TTCK cũn tạo điều kiện cho
93
việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua phát hành
chứng khoán ra nƣớc ngoài.
TTCK là một thể chế kinh tế bậc cao, là hệ quả tất yếu của một nền
kinh tế phỏt triển chớnh vỡ thế nú cũn giữ vai trũ là cụng cụ đánh giá hoạt
động kinh doanh và là phong vũ biểu của nền kinh tế. Thụng qua TTCK,
các nhà hoạch định kinh tế có thể đƣa ra những phƣơng hƣớng cần thiết
cho sự phát triển của đất nƣớc.
Rừ ràng, TTCK đang trở thành một thể chế không thể thiếu đối với
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiờn, trong quỏ trỡnh hoạt động TTCK vẫn
cũn bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục. Để TTCK thực hiện
tốt “sứ mệnh” thúc đẩy sự tăng trƣởng của nền kinh tế, trong tƣơng lai Việt
Nam cần phải cú những biện phỏp để khắc phục những hạn chế đó.
94
CHƢƠNG 3: TTCK VIỆT NAM - NHỮNG TỒN TẠI VÀ
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
3.1 Những tồn tại
TTCK đƣợc hỡnh thành và phỏt triển đó tạo ra một bƣớc ngoặt mới
đối với nền kinh tế Việt Nam, TTCK đang dần trở thành phƣơng thức huy
động, phân phối vốn đồng thời là môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh, là “hàn
thử biểu” cho nền kinh tế. Tuy nhiờn, TTCK Việt Nam cũn rất non trẻ mới
chỉ xuất hiện trong quỏ trỡnh cải cỏch mụ hỡnh kế hoạch hoỏ tập trung nền
kinh tế quốc dõn sang mụ hỡnh thị trƣờng của nền kinh tế. Vỡ vậy, chứng
khoỏn và TTCK là những vấn đề cũn mới lạ không chỉ đối với công chúng
mà cũn đối với cả các NĐT. Do vậy, dù đó hỡnh thành đƣợc 12 năm nhƣng
TTCK Việt Nam vẫn cũn tồn tại nhiều hạn chế. Đây là sự cản trở cho sự
phát triển của TTCK nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung, đũi
hỏi trong thời gian tới phải có giải pháp tốt để hoàn thiện hơn nữa TTCK
Việt Nam.
3.1.1 Sự phát triển của TTCK Việt Nam đang cũn ở giai
đoạn nghiên cứu, thử nghiệm
So với cỏc quốc gia phỏt triển khỏc, TTCK của Việt Nam cũn rất
non trẻ, nếu tớnh từ phiờn giao dịch đầu tiờn (thỏng 7/2000) thỡ TTCK cho
đến nay chính thức chỉ mới tồn tại đƣợc 8 năm. Do đó, sự phát triển của
TTCK Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm và cũn
nhiều hạn chế.
Có thể thấy, so với TTCK ở các nƣớc trong khu vực (Singgapore,
Thái Lan) và trờn thế giới thỡ dung lƣợng TTCK Việt Nam vẫn cũn quỏ
nhỏ và khụng đáng kể. Phiên giao dịch đầu tiên, toàn thị trƣờng chỉ có hai
mó chứng khoỏn đƣợc giao dịch, cho tới cuối năm 2008, trên cả hai sàn
95
chứng khoỏn, chỳng ta cũng chỉ cú 193 mó cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đƣợc
giao dịch. Trong khi đó, số lƣợng các công ty niêm yết tại các SGDCK ở
các nƣớc Phƣơng Tây thƣờng là hàng trăm, thậm chí trên 1000 (nhƣ
SGDCK Tokyo số lƣợng các công ty niêm yết là hơn 1200 công ty). Cùng
với số lƣợng công ty niêm yết lớn, dung lƣợng trung bỡnh của cỏc TTCK
trờn thế giới cũng tới hàng trăm tỷ USD, ở các thị trƣờng lớn lên tới hàng
ngàn tỷ USD. Cũn ở Việt Nam, dung lƣợng của TTCK mới vào khoảng
2.500 tỷ VNĐ (khoảng hơn 100 triệu USD) [56]. Quy mô của thị trƣờng
nhỏ nhƣ vậy đó khiến cho việc giao dịch thứ cấp trờn TTCK gặp nhiều hạn
chế. Do đó, sự phát triển TTCK Việt Nam phải bắt đầu từ thị trƣờng sơ
cấp.
Hơn thế nữa, thị trƣờng sơ cấp của Việt Nam vẫn cũn quỏ nhỏ,
những sản phẩm tài chớnh cũn quỏ đơn điệu (trái phiếu Chính phủ và cổ
phiếu của các công ty cổ phần), cho đến nay vẫn chƣa có doanh nghiệp nào
tổ chức việc phát hành trái phiếu. Vỡ vậy, dung lƣợng thị trƣờng sơ cấp
vẫn chƣa đủ lớn để tạo ra sức ộp với thị trƣờng cổ phiếu núi chung và tạo ra
nhu cầu khỏch quan cho việc phỏt triển TTCK thứ cấp.
Bên cạnh đó, thị trƣờng OTC cũng chiếm vị trí ngày càng quan trọng
(thậm chí chiếm từ 60% - 80% dung lƣợng giao dịch) ở các TTCK truyền
thông trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Hiện nay, việc phát
hành chứng khoán trên thị trƣờng OTC ở Việt Nam đƣợc thực hiện chủ yếu
thông qua việc bán các loại trái phiếu Chính phủ và việc phát hành cổ phiếu
của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Song, sự thiếu hụt thông tin
thị trƣờng cùng với sự thiếu đồng bộ của TTCK đang cản trở hoạt động
giao dịch các chứng khoán trên thị trƣờng OTC và bộ phận thứ cấp của thị
trƣờng OTC hoạt động chƣa hiệu quả. Vả chăng, chứng khoán chƣa đƣợc
xó hội mặc nhiờn thừa nhận là một loại hỡnh tài sản đặc biệt, vỡ vậy, việc
sử dụng chứng khoán để thế chấp cho việc huy động vốn cũn gặp nhiều
96
khú khăn. Chỉ số chứng khoỏn (VN-Index) chỉ mới đƣợc thiết lập về mặt
hỡnh thức, phục vụ việc thử nghiệm giao dịch chứng khoỏn. Trong khi về
bản chất, chức năng của VN-Index là công cụ quan trọng nhất để phân tích
tổng thể về thực trạng và dự đoán khuynh hƣớng vận động của thị trƣờng
tài chính. Ngoài ra, do tổng giá trị các cổ phiếu niêm yết cũn quỏ nhỏ nờn
sự vận động của chỉ số chứng khoán Việt Nam chƣa thể đại diện và chƣa
thể phản ánh đƣợc động thái của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là: trong
những năm qua nền kinh tế quốc dân Việt Nam luôn luôn tăng trƣởng với
tốc độ cao (khoảng 7%/năm); trong khi đó VN-Index thỡ biến thiờn liờn
tục do giỏ cả của cỏc cụng ty niờm yết biến động mạnh. Để khắc phục
những nghịch lý của TTCK, UBCKNN đó chỉ đạo TTGDCK Thành phố
Hồ Chí Minh và các công ty chứng khoán áp dụng nhiều giải pháp để kích
cầu nhằm bỡnh ổn thị trƣờng. Nhƣng cho đến nay, TTCK Việt Nam cũng
mới chỉ thiết lập đƣợc sự ổn định tạm thời.
3.1.2 Hoạt động của TTCK không ổn định
Lịch sử đó ghi nhận, TTCK nói chung tồn tại cho tới ngày nay đó
trải qua ba lần khủng hoảng lớn: vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới
1929 - 1933; khủng hoảng kinh tế 1987 - 1989; khủng hoảng tiền tệ tài
chính năm 1997. Tuy nhiên với vai trũ là một cụng cụ tài chớnh, một thể
chế kinh tế khụng thể thiếu ở bất kỳ quốc gia nào nờn TTCK đó luụn đƣợc
hồi phục và phát triển mạnh mẽ trở lại. Điều này cho thấy, hoạt động của
TTCK luôn luôn biến động và ở khía cạnh nào đó là không ổn định do bị
chi phối bởi nhiều thành phần kinh tế khác. Và TTCK Việt Nam cũng vậy,
từ khi ra đời đến nay luôn luôn biến động và không ổn định.
TTCK chính thức khai trƣơng và hoạt động vào tháng 7/2000 cho tới
giữa năm 2001, thị trƣờng phát triển liên tục và mạnh mẽ. Trên thị trƣờng
thứ cấp đó cú khoảng 100 cụng ty cổ phần và 900 doanh nghiệp Nhà nƣớc
phát hành cổ phiếu huy động vốn để bổ sung hoặc cơ cấu lại vốn điều lệ.
97
Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết không ngừng tăng, có thời điểm chỉ
số VN-Index đó đạt tới hơn 570 điểm. Tuy nhiên thời gian tăng trƣởng của
TTCK không kéo dài, từ giữa năm 2001 đến cuối năm 2003 (đặc biệt là 9
tháng sau cùng của giai đoạn này) diễn biến của thị trƣờng đó hoàn toàn
ngƣợc lại với thời kỳ đầu. Chỉ số chứng khoán liên tục giảm, đó cú lỳc VNIndex tụt xuống tời mức 160 điểm. Giá cả của một số cổ phiếu sụt giảm
liên tục, thậm chí đó cú lỳc thấp hơn mệnh giá (ví dụ nhƣ cổ phiếu BBC
vào giữa năm 2003). Trong khi đó GDP vẫn tiếp tục tăng và ổn định ở mức
giá hơn 7%/năm. Điều này cho thấy, trong thời gian đầu TTCK chƣa thực
sự đóng vai trũ là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, chƣa phản ánh đúng
mọi trạng thái kinh tế của đất nƣớc [8, tr.143].
Tỡnh trạng ảm đạm kéo dài 2 năm, với mọi biện pháp kích cầu của
Chính phủ, TTCK đó dần đƣợc khôi phục vào cuối năm 2003, đầu năm
2004. Bắt đầu từ thời điểm này, TTCK Việt Nam đó hỡnh thành xu hƣớng
tăng trƣởng mới, kéo VN-Index tăng lên nhanh chóng. Hai năm 2006, 2007
đƣợc coi là đỉnh cao của TTCK Việt Nam. Đây là thời điểm thị trƣờng sôi
động, nóng bỏng nhất. Số lƣợng các công ty niêm yết tăng đột biến; giá trị
giao dịch tăng mạnh (trung bỡnh đạt 600 đến 700 tỷ đồng/phiên tại
TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và khoảng 100 tỷ đồng tại TTGDCK
Hà Nội trong tháng 12/2006 so với 79,5 tỷ đồng/phiên trƣớc năm 2005)
[40, tr.24]; khối lƣợng các NĐT tham gia TTCK đông đảo gấp nhiều lần so
với thời gian trƣớc đó; Giá cổ phiếu đạt tới đỉnh điểm và cho tới thời điểm
hiện nay, chƣa một cổ phiếu nào có giá vƣợt qua đƣợc “ngƣỡng” đó. Sự
bùng nổ của thị trƣờng chứng khoán trong thời gian này đó khiến nhiều
ngƣời lo ngại. Chính phủ đó đƣa ra một số chính sách nhằm kỡm hóm sự
tăng trƣởng quá mức của thị trƣờng, đƣa TTCK Việt Nam về đúng mức độ
tăng trƣởng thực. Vỡ vậy, từ quý 2 năm 2007, thị trƣờng bắt đầu xu hƣớng
đổi chiều mạnh. Giá cả của cổ phiếu lần lƣợt “tụt dốc”, thị trƣờng bắt đầu
98
có dấu hiệu của sự suy giảm. Tỡnh trạng này kộo dài cho tới giai đoạn hiện
nay và năm 2008 đƣợc coi là năm sụt giảm mạnh mẽ nhất của TTCK, VNIndex liên tục thiết lập những đáy mới.
Nhƣ vậy, chính thức chỉ mới hoạt động đƣợc 8 năm song TTCK đó
cú tới 2 lần “lao dốc” dự đó đƣợc hỗ trợ bởi nhiều biện pháp kích cầu của
Chính phủ. Và khoảng thời gian giữa năm 2008, đƣợc coi là thời kỳ ảm
đạm nhất của TTCK, cho tới nay mới bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Sự
không ổn định của TTCK có tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, trƣớc hết là đối với các công ty đang niêm yết trên sàn giao dịch
và các NĐT nhỏ, lẻ. Khi thị trƣờng chứng khoán khủng hoảng, các công ty
cổ phần không thể huy động đƣợc nguồn vốn đầu tƣ mạnh mẽ nhƣ trƣớc
đây, điều nay dẫn đến sự trỡ trệ, khú khăn trong sản xuất. Và một tác động
tiêu cực khác là các NĐT hầu nhƣ đó mất hết số vốn đầu tƣ vào chứng
khoán. Điều này không chỉ ảnh hƣởng tới cuộc sống kinh tế của họ mà cũn
gõy ra tõm lý hoang mang, mất tin tƣởng vào vai trũ, chức năng của TTCK.
Do đó sẽ làm chậm lại khả năng phục hồi của thị trƣờng.
3.1.3 Kinh doanh chứng khoán mang thuộc tính “bầy
đàn” và cũn mang nhiều yếu tố đầu cơ, rủi ro.
Đối với các quốc gia phát triển, TTCK đó đƣợc hỡnh thành từ nhiều
thế kỷ trƣớc, (TTCK Anh - 1773, TTCK Đức - 1778, TTCK Mỹ - 1792,
TTCK Nhật - 1878, TTCK Pháp - 1801, TTCK Hồng Kông - 1946, TTCK
Trung Quốc - 1949...) nên không cũn là xa lạ với cỏc NĐT do đó đó hỡnh
thành những lớp ngƣời chuyên nghiệp trong đánh giá, phân tích và đầu tƣ
chứng khoán [20, tr.89].
TTCK nƣớc ta mới hoạt động chƣa đầy một thập kỷ nên một trong
những đặc điểm nổi bật của thị trƣờng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
là các NĐT kinh doanh mang nặng tính “bầy đàn”. Yếu tố tâm lý chi phối
một cách mạnh mẽ hoạt động đầu tƣ của họ. Có thể nói, TTCK đối với
99