1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học tự nhiên >

3 TTCK từng bước thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 146 trang )


thế giới và khu vực, cỏc NĐT nƣớc ngoài chú ý tới Việt Nam cũn bởi tiềm

năng và triển vọng của TTCK - một kênh đầu tƣ đầy hấp dẫn.

Trong các năm qua, các NĐT trên thế giới ngày càng quan tâm đến

TTCK và coi đó là kênh thu lợi khá hiệu quả trong bối cảnh lợi nhuận của

doanh nghiệp tăng và lói suất tiết kiệm giảm của nhiều quốc gia. Sức hỳt

của TTCK thế giới với cỏc NĐT ngày càng tăng. Nguyên nhân là do: nền

kinh tế thế giới dù có tăng trƣởng chậm lại nhƣng đó trỏnh đƣợc những tác

động tiêu cực nhất của cơn sốt giá dầu trong các năm gần đây; TTCK đó

ngày càng chứng tỏ khả năng sinh lợi cao và sự phục hồi bền vững của thị

trƣờng cổ phiếu đó tạo thuận lợi cho hoạt động sỏp nhập và mua lại giữa

cỏc cụng ty ngày càng trở lờn mạnh mẽ.

Theo dự báo của các tổ chức tài chính lớn nhất trên thế giới, triển

vọng phát triển của TTCK Việt Nam trong những năm tới là rất lớn. Mặc

dù TTCK Việt Nam mới chỉ hoạt động chính thức đƣợc 8 năm và đó trải

qua rất nhiều lần biến động, sụt giảm song tiềm năng để phát triển cũn

nhiều. Theo dự đoán của các tổ chức tài chính trên (tại thời điểm quý

II/2007) thỡ: TTCK sẽ tiếp tục tăng mạnh trong 4 năm tới và dự báo giá trị

thị trƣờng các chứng khoán niêm yết có khả năng đạt 30 - 40% GDP vào

năm 2010, tƣơng đƣơng khoảng 250 - 300 ngàn tài khoản (thực tế một số

chỉ tiêu khi bƣớc vào quý II/2007 đó cao hơn dự báo này). Đồng thời, sẽ có

sự gia tăng nhanh số lƣợng các NĐT chuyên nghiệp, NĐT nƣớc ngoài và

có thể chiếm đến 5% tổng số các NĐT [26, tr.162].

Sự đánh giá cao của các tổ chức tài chính uy tín của thế giới đó khiến

một nguồn tiền lớn đổ vào TTCK Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt

Nam nói chung. Quý II/2007, là thời điểm nền kinh tế Việt Nam nhận đƣợc

sự quan tâm hơn bao giờ hết của thế giới. Các NĐT Mỹ và Ấn Độ vừa cam

kết đầu tƣ trực tiếp khoảng 15 tỷ USD vào Việt Nam. Và theo báo cáo của

Trung tâm lƣu ký chứng khoỏn thỡ lƣợng tài khoản NĐT đƣợc mở trong



83



tháng 5 và tháng 6 năm 2007 đó tăng gấp 2 lần so với 7 năm qua cộng lại

[45, tr.19].

Trong thời gian qua, bờn cạnh nguồn vốn FDI thỡ nguồn vốn FII

cũng đang ngày một tăng. Theo con số thống kê chƣa đầy đủ, hiện có từ 5 6 tỷ USD và khả năng thu hút nguồn vốn này đang là nguồn hỗ trợ to lớn

cho việc cung vốn trong nƣớc, tạo điều kiện tài trợ cho các mục tiờu phỏt

triển của doanh nghiệp. Và điều đáng chú ý là nguồn vốn FII chủ yếu qua

kờnh chứng khoỏn, ở đây là các Quỹ đầu tƣ để mua cổ phiếu của các công

ty niêm yết hoặc trái phiếu Chính phủ. Điều này đồng nghĩa với việc tăng

cả cung lẫn cầu cho phát triển TTCK Việt Nam. Tăng cung theo nghĩa khi

nguồn vốn dồi dào sẽ tạo ra cơ hội, kích thích các doanh nghiệp tăng phát

hành cổ phần để mở rộng sản xuất thúc đẩy tăng trƣởng. Đồng thời, Chính

phủ tăng phát hành trái phiếu Chính phủ để mở rộng các dịch vụ công

cộng. Việc đó giúp lƣợng hàng hoá đƣa ra TTCK ngày càng tăng cả về chất

lƣợng và số lƣợng.

Cú thể thấy, thông qua TTCK nguồn vốn nƣớc ngoài đó khụng

ngừng đổ vào Việt Nam, điều này đó tạo ra một sự liên kết mới về tài chính

với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là với các quốc gia có nền kinh tế phát

triển. Và qua TTCK, quá trỡnh hội nhập, giao lƣu kinh tế diễn ra sôi động,

mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nếu nhƣ trƣớc đây, các quỹ đầu tƣ nƣớc ngoài

vào Việt Nam mới chỉ dừng lại ở số lƣợng khiêm tốn và nhanh chóng rút đi

trong vài năm hoạt động (thời kỳ đầu những năm 1990) thỡ đến nay, khi

TTCK Việt Nam ra đời, các Quỹ đầu tƣ nƣớc ngoài đó trở lại và hoạt động

mạnh mẽ. Ngoài những Quỹ đầu tƣ lớn của nƣớc ngoài: Vietnam Holding,

Dragon Capital ... ở Việt Nam đó xuất hiện quỹ liờn doanh giữa Việt Nam

và cỏc tổ chức quốc tế: Viet Fund VFM (Liên doanh giữa Dragon Capital

và Sacombank). Điều này không chỉ tạo ra nguồn vốn lớn cho TTCK mà



84



cũn là sự đảm bảo cho khả năng mở rộng hội nhập với thị trƣờng thế giới

của TTCK Việt Nam.

TTCK Việt Nam ra đời khi TTCK ở các nền kinh tế lớn đó phỏt triển

mạnh mẽ và vững chắc, điều này đó mở ra cơ hội về hội nhập tài chính,

đồng thời cũng là thách thức cho kinh tế Việt Nam. TTCK là kết quả của

nền kinh tế thị trƣờng phát triển đạt tới trỡnh độ cao, là một thể chế tài

chính không thể thiếu đối với nền kinh tế phát triển, do vậy khi Việt Nam

xây dựng đƣợc một TTCK nhƣ hiện nay, mặc dù cũn nhỏ bộ nhƣng đó

chứng tỏ tiềm lực kinh tế của mỡnh với cỏc quốc gia khỏc ngày càng đƣợc

mở rộng. Trên thực tế, TTCK của các quốc gia trên thế giới đó thiết lập

đƣợc mối liên hệ ngày càng chặt chẽ và đa dạng. Mối liên hệ này thúc đẩy

mạnh mẽ hơn quá trỡnh hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia, trong đú cú

Việt Nam.

Từ năm 2001, UBCKNN đó trở thành thành viờn của Tổ chức quốc

tế cỏc Uỷ ban chứng khoỏn (IOSCO). Từ đó đến nay, UBCKNN đó tớch

cực tham gia vào việc xõy dựng cỏc chớnh sỏch, nghiệp vụ quản lý của tổ

chức này. UBCKNN cũng cú quan hệ chặt chẽ với các tổ chức quốc tế nhƣ:

Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). UBCKNN

đó thực hiện việc ký kết biờn bản ghi nhớ hợp tỏc về quản lý chứng khoỏn

và TTCK với cỏc cơ quan quản lý TTCK nƣớc ngoài nhƣ Uỷ ban giám sát

tài chính Hàn Quốc (FSC) năm 2002, Uỷ ban giám sát quản lý chứng

khoán Trung Quốc (CSRC) năm 2005. SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh

cũng đó thực hiện ký kết nhiều Biờn bản ghi nhớ hợp tỏc với cỏc SGDCK

cỏc nƣớc trên thế giới nhƣ SGDCK Luân Đôn, Thái Lan, NewYork,

Malaysia, Singapore, cộng hoà Czech, Warsan (Ba Lan), Tokyo (Nhật

Bản). Nội dung của cỏc Biờn bản ký kết này nhằm tăng cƣờng bảo vệ NĐT

và tính toàn vẹn của TTCK. Đồng thời bảo vệ các công cụ đầu tƣ thông qua

việc đƣa ra một khuân khổ hợp tác, bao gồm các kênh thông tin liên lạc,



85



tăng cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau và trao đổi các thông tin kinh nghiệm

quản lý cũng nhƣ các thông tin kỹ thuật, thanh tra giám sát, cƣỡng chế thực

thi [38, tr.109]. Sự kiện này là cột mốc đánh dấu sự thành công của cơ quan

quản lý TTCK Việt Nam trong tiến trỡnh hội nhập quốc tế, tạo điều kiện

thuận lợi hơn nữa trong việc hợp tác quản lý thị trƣờng, chia sẻ kinh

nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật giữa Uỷ ban chứng khoán các nƣớc nhằm đảm bảo

tính công khai, minh bạch cũng nhƣ tính toàn vẹn của TTCK. Mặt khác,

đợt phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trƣờng vốn quốc tế là cơ hội để

TTCK Việt Nam tiếp cận với các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm, thể hiện

cam kết thực hiện công khai, minh bạch, tuân thủ các tiêu chuẩn và thông

lệ quốc tế.

Trong những năm 2005, năm 2007, thế giới đó chứng kiến sự phỏt

triển, đi lên mạnh mẽ của TTCK quốc tế và cả TTCK Việt Nam. Năm

2005, hai TTCK London và Paris dẫn đầu về số đợt phát hành cổ phiếu lần

đầu tiên ra công chứng ở Châu Âu và tăng mạnh so với năm trƣớc (tăng

40% số lƣợng so với năm 2004 tại TTCK Châu Âu). Cũng trong thời gian

này, sự sáp nhập SGDCK New York với mạng giao dịch điện tử

Arrchipelago và SGDCK Nasdaq mua lại mạng giao dịch chứng khoán

điện tử Instinet trở thành sự kiện thu hút sự quan tâm của đông đảo giới đầu

tƣ chứng khoán. Đồng thời, sự kiện đó cũng đó tạo ra một sức cạnh tranh

mới, trở thành thỏch thức lớn đối với khả năng cạnh tranh của những

TTCK nhỏ hơn. Cuối năm 2006, chỉ số Dow-Jones của TTCK Hoa Kỳ đạt

1.200 điểm, tăng 9% vƣợt mức tăng theo dự kiến đầu năm [36, tr.128].

Trong khi đó TTCK Châu Á đó vƣợt qua phần lớn những nhân tố bất

lợi nhƣ: thiên tai, dịch bệnh, lói suất tăng, chi phí tăng cao theo giá năng

lƣợng ... để tăng giá trong suốt năm 2006. Điều này đó tiếp thờm sức mạnh

cho cỏc NĐT với hy vọng trong tƣơng lai họ sẽ đƣợc chứng kiến sự trở lại

của lợi nhuận đỉnh cao vào cuối thập niên 1990. Các TTCK đƣợc đánh giá



86



hoạt động tốt nhất là Seoul (Hàn Quốc) với chỉ số Kospi tăng hơn 50%;

TTCK Bombay (Ấn Độ) với chỉ số Sensex tăng 40%; chỉ số Nikkei của

TTCK Tokyo tăng 42,3%. Tính đến cuối tháng 12/2006, TTCK Việt Nam

tăng 139,84%, TTCK Thƣợng Hải và Thâm Quyến của Trung Quốc tăng

111,95%. Tổng kim ngạch giao dịch của 3 TTCK Trung Quốc là Hong

Kong, Thƣợng Hải, Thẩm Quyến cộng lại đó đạt tới 45 tỷ USD, đạt mức kỷ

lục và lần đầu tiên vƣợt TTCK Mỹ (42,4 tỷ USD) chỉ đứng sau TTCK

London (52,7 tỷ USD). Năm 2007, là năm tăng trƣởng ấn tƣợng nhất của

chứng khoán Trung Quốc , chỉ số Shanghai trở thành một trong những chỉ

số tăng trƣởng mạnh nhất trên thế giới (97%). Chỉ số JSX của Jakarta

(Indonesia) tăng 52,1%; chỉ số Sensex của Bombay (Ấn Độ) tăng 47,1%;

chỉ số Hang Seng của Hong Kong tăng 39,3%. Các chỉ số quan trọng của

Hàn Quốc, Malaysia và Australia cũng có những bƣớc tăng trƣởng khá

trong năm 2007 [36, tr.129].

Nhƣ vậy, TTCK đang dần trở thành một kênh dẫn vốn liên quốc gia.

Giữa các TTCK của các nƣớc có sự tác động lẫn nhau, kích thích nhau phát

triển. Những thị trƣờng lớn luôn có một ảnh hƣởng nhất định đối với

TTCK mới nổi. Những tăng trƣởng tích cực trong thời gian vừa qua của

TTCK thế giới cũng đó mở ra khả năng phát triển mạnh của TTCK trong

nƣớc. Trên thực tế, TTCK Việt Nam đó tăng 20% (năm 2007). Đây là cơ

hội cũng là thách thức cho TTCK Việt Nam. Đó là cơ hội hội nhập mở

rộng giao lƣu với các thị trƣờng bên ngoài, thu hút đƣợc một nguồn vốn lớn

giúp tăng trƣởng nhanh nền kinh tế đồng thời phải đối mặt với sự cạnh

tranh khốc liệt với cỏc nền kinh tế phỏt triển - một rào cản lớn đối với thị

trƣờng mới nổi cũn non trẻ nhƣ TTCK Việt Nam.

Cú thể núi, TTCK ra đời đó đƣa quá trỡnh hội nhập quốc tế của kinh

tế Việt Nam lờn một bƣớc mới. Sự liên kết tài chính, tiền tệ trở nên rộng

rói và sõu sắc hơn. Qua đó, có thể giới thiệu thƣờng xuyên hơn hỡnh ảnh



87



đất nƣớc Việt Nam với các NĐT quốc tế đồng thời tạo lũng tin và động lực

thu hút sự quan tâm lớn của các NĐT trực tiếp cũng nhƣ các doanh nhân

nƣớc ngoài tại Việt Nam.



2.4 TTCK thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động hiệu

quả hơn đồng thời là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh,

là phong vũ biểu của nền kinh tế

Khi TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh chuyển thành SGDCK và

Luật chứng khoán ngày càng đƣợc hoàn thiện thỡ yờu cầu đối với mỗi công

ty - tổ chức phát hành chứng khoán càng trở nên chặt chẽ hơn. Hiện nay,

các tổ chức phát hành chứng khoán muốn niêm yết, giao dịch chứng khoỏn

của mỡnh tại SGDCK phải tuõn thủ theo cỏc quy định nghiêm ngặt của tiêu

chuẩn niêm yết. Các tiêu chuẩn niêm yết này đƣợc xem xét trên hai khía

cạnh khác nhau, đó là tiêu chuẩn về mặt định tính và tiêu chuẩn về mặt

định lƣợng. Các tiêu chuẩn này trên mỗi một TTCK có thể khác nhau

nhƣng nói chung đều xem xét trên các khía cạnh: tổng tài sản có của tổ

chức niêm yết, tỷ lệ nợ trên vốn khả dụng, số năm làm ăn có lói, tỷ lệ cổ

tức trờn mệnh giỏ… Ngoài ra các tiêu chuẩn về hệ số sử dụng vốn, cơ cấu

phân bổ vốn, cơ cấu hội đồng quản trị, ban giám đốc điều hành, nghĩa vụ

công bố thông tin công khai, minh bạch cũng đƣợc xem xét trong quá trỡnh

chấp thuận cho việc niờm yết giao dịch chứng khoỏn tại SDGCK. Các vấn

đề này đó đƣợc cụ thể hoá trong Nghị định số 14/2007/NĐ-CP do Chính

phủ ban hành quy định thi hành chi tiết một số điều của Luật chứng khoán

về: chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết chứng khoán, công ty

chứng khoán, công ty quản lý quỹ và công ty đầu tƣ chứng khoán.

Theo Nghị định, một công ty muốn niờm yết cổ phiếu của mỡnh trờn

SGDCK phải đáp ứng đƣợc đầy đủ 6 điều kiện. Trong đó điều kiện tiên

quyết là về quy mô vốn của công ty: Là CTCP có vốn điều lệ đó gúp tại

thời điểm đăng ký niêm yết đạt từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá

88



trị ghi trên sổ kế toán; hoạt động kinh doanh 2 năm liền trƣớc năm đăng ký

niờm yết phải cú lói và khụng cú lỗ luỹ kế tớnh đến năm đăng ký niêm yết;

công khai mọi khoản nợ của công ty đối với các thành viên: Hội đồng quản

trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó giám đốc hoặc Phó

tổng giám đốc, Kế toán trƣởng, Cổ đông lớn hoặc những ngƣời có liên

quan… Với việc niêm yết các trái phiếu cũng đƣợc quy định chặt chẽ nhƣ

vậy (Phụ lục 2). Khi đó niờm yết rồi, cỏc cụng ty này tiếp tục phải chịu sự

kiểm tra, giỏm sỏt của SGDCK, UBCKNN. Ngoài ra cũn chịu sự chi phối

của cỏc cụng ty kiểm toỏn độc lập và các công ty đánh giá xếp hạng [54].

Chớnh việc cụ thể hoá các quy định thành các văn bản phỏp luật,

việc giám sát liên tục của các tổ chức Nhà nƣớc đó tạo cho cỏc doanh

nghiệp quan tõm tới hiệu quả và tuõn thủ luật phỏp hơn. Bởi lẽ chỉ có nhƣ

vậy các chứng khoán của họ mới đƣợc thị trƣờng chấp nhận và mới thu hút

đƣợc nguồn vốn từ các NĐT. Để tạo ra khả năng hấp dẫn của chứng khoán

đối với công chúng, không có cách nào khác là các doanh nghiệp luôn phải

tính toán để quản lý một cỏch cú hiệu quả, trờn cơ sở đó không ngừng phát

huy tính sáng tạo của doanh nghiệp

Đồng thời, khi tham gia vào TTCK các doanh nghiệp Việt Nam, đặc

biệt là các công ty niêm yết đó bắt đầu hỡnh thành cung cỏch và nề nếp

mới, hoạt động tích cực cho phù hợp với những yêu cầu, nguyên tắc quản

lý của Nhà nƣớc. Hơn nữa, do luôn phải đƣa những thông tin cơ bản về

tỡnh hỡnh hoạt động của công ty ra công chúng nên điều này đó phần nào

thỳc đẩy các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, có trách nhiệm hơn

với uy tín của bản thân doanh nghiệp và trách nhiệm với cộng đồng.

Cơ chế hoạt động của CTCP đó cho phộp chủ sở hữu chứng khoỏn

cú quyền tham gia điều hành và quản lý cụng ty. Thụng qua việc nắm giữ

chứng khoán có quyền biểu quyết, các chủ sở hữu chứng khoán sẽ tham gia

hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành công ty, sẽ chịu trách nhiệm



89



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

×