Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 146 trang )
trũ trong quỏ trỡnh chuyển đổi kinh tế. Việc cải cách hệ thống Ngân hàng
đó củng cố đƣợc các quan hệ tín dụng tiền tệ. Vỡ vậy, việc huy động các
nguồn vốn trong nƣớc đó và đang diễn ra khá thuận lợi. Tuy nhiên, để có
đƣợc thị trƣờng tài chính cần phải đa dạng hoá phƣơng thức huy động vốn,
phân phối và sử dụng nguồn vốn xó hội
Thực trạng kinh tế - xó hội nƣớc ta trong những năm 80, 90 của Thế
kỷ XX đó khẳng định: để phát triển kinh tế và thực hiện việc cải cách sang
nền kinh tế thị trƣờng, Việt Nam cần phải huy động các nguồn vốn đầu tƣ
không chỉ ở trong nƣớc mà cũn phải huy động đƣợc các nguồn vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài với khối lƣợng lớn. Để thực hiện điều này, nhất thiết phải thiết
lập đƣợc thị trƣờng vốn quốc gia và TTCK với tất cả những đặc điểm và
chức năng vốn có đó trở thành mụ hỡnh đáp ứng đƣợc yờu cầu sống cũn đó
của đất nƣớc.
Trƣớc thực trạng kinh tế - xó hội nhƣ vậy, Bộ tài chính và Ngân
hàng Nhà nƣớc (NHNN) Việt Nam theo định hƣớng của Chính phủ đó
triển khai rất sớm, từ những năm 1993 - 1994 các chƣơng trỡnh nghiờn cứu
về TTTC nói chung và TTCK nói riêng. Bộ trƣởng Bộ tài chính đƣợc
Chính phủ giao nhiệm vụ Trƣởng ban soạn thảo phỏp lệnh về chứng khoỏn,
cú sự tham gia của NHNN, Bộ tƣ pháp; ở NHNN đó lập ra Ban thị trƣờng
vốn (1994), tổ chức tiền thân của UBCKNN sau này, để nghiên cứu và
chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ thuật và tổ chức cho sự ra đời của thị
trƣờng chứng khoán [43, tr.10]. Những hoạt động chuẩn bị cho việc xây
dựng TTCK, đặc biệt là công việc nghiên cứu của NHNN và Bộ tài chính
tiến hành trong nửa đầu thập niên 90 đó gúp phần đáng kể vào sự ra đời của
ngành chứng khoán ở nƣớc ta.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những tiền đề về lý luận cũn trờn thực tế dự
những tiền đề về kinh tế - tài chính cho sự vận hành TTCK ở nƣớc ta vẫn
30
chƣa đồng bộ nhƣng đó cú những yếu tố cơ bản góp phần mở đƣờng cho
việc tạo lập một TTCK trong nƣớc.
Những năm đầu thập niên 90 của Thế kỷ XX, một nền kinh tế thị
trƣờng đó đƣợc xác lập với sự phát triển tƣơng đối ổn định và hƣớng mạnh
ra bên ngoài là tiền đề đầu tiên, cơ bản nhất để nƣớc ta hƣớng tới một thị
trƣờng vốn trung và dài hạn: đó là TTCK. Trên cơ sở nền kinh tế thị
trƣờng, cỏc nền tảng thể chế của TTCK cũng dần đƣợc xác lập nhƣ: các thị
trƣờng yếu tố đầu vào (thị trƣờng đất đai và bất động sản, thị trƣờng lao
động, thị trƣờng tiền tệ …) và các chủ thể thị trƣờng (doanh nghiệp, các
công ty cổ phần, nhà đầu tƣ - công chúng …) và các định chế tài chính nền
(ngân hàng thƣơng mại, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tƣ …). Trong cơ chế thị
trƣờng cùng sự quan tâm của Nhà nƣớc, các nền tảng thể chế trên ngày
càng đƣợc củng cố, xây dựng và phát triển vững chắc: Thị trƣờng lao động
dần đƣợc tạo lập, mở rộng ra bên ngoài; thị trƣờng tiền tệ hoạt động ổn
định; thị trƣờng tín dụng đó cú những bƣớc phát triển khá; hệ thống tín
dụng, ngân hàng đó phỏt hành một khối lƣợng lớn tín phiếu và trái phiếu;
quá trỡnh cổ phần hoỏ tuy cũn khỏ mới mẻ so với tiến trỡnh xõy dựng nền
kinh tế đất nƣớc nhƣng cũng đó tạo đƣợc nhiều CTCP với một khối lƣợng
cổ phiếu nhất định. Có thể coi đó là những yếu tố cơ bản đầu tiên để chúng
ta tiến hành xây dựng TTCK.
Một nền tảng quan trọng khác để ngành chứng khoán ra đời và hoạt
động là khuôn khổ pháp lý và cỏc điều kiện về tổ chức. Đây là cơ sở để các
thể chế chứng khoán khẳng định đƣợc tƣ cách pháp lý của mỡnh trong
quan hệ với cỏc chủ thể liờn quan (cỏc thiết chế Nhà nƣớc, các doanh
nghiệp và công chúng). Tuy nhiên, đây cũng là đặc điểm làm cho quá trỡnh
hỡnh thành TTCK ở Việt Nam khỏc với nhiều nƣớc khác. Thông thƣờng,
ở các nƣớc, TTCK ra đời theo logic tự nhiên, tự phát của thị trƣờng trên cơ
sở đó Nhà nƣớc thiết lập bộ máy quản lý và điều hành nó. Nhƣng ở nƣớc ta
31
vỡ nhiều lý do đặc thù (vai trũ chủ động tổ chức quá trỡnh chuyển đổi sang
kinh tế thị trƣờng của Nhà nƣớc, mục tiờu xõy dựng sớm TTCK, yờu cầu
quản lý một thể chế thị trƣờng bậc cao nhằm giữ vững định hƣớng xó hội
chủ nghĩa …) mà Uỷ ban chứng khoỏn – cơ quan có chức năng chính là
quản lý Nhà nƣớc đối với TTCK, lại ra đời trƣớc cả đối tƣợng quản lý của
mỡnh là TTCK. Uỷ ban chứng khoán Nhà nƣớc (UBCKNN) đảm nhiệm
vai trũ chuẩn bị cỏc điều kiện cần thiết, trong đó bao gồm các điều kiện tổ
chức để TTCK sớm ra đời và vận hành có hiệu quả. Theo nghĩa nhƣ vậy,
UBCKNN chính là tiền đề tổ chức cơ bản của TTCK Việt Nam. Từ tiền đề
này, cấu trúc khung tổ chức của ngành chứng khoán Việt Nam dần dần
đƣợc tạo dựng.
Bên cạnh đó, việc xây dựng mở rộng các mối quan hệ quốc tế để có
đƣợc sự hỗ trợ tích cực từ bên ngoài đƣợc coi là một trong những điều kiện
tiền đề đặc biệt quan trọng để thực hiện sứ mệnh tạo lập TTCK ở Việt
Nam. Với sự quan tâm của chính phủ cùng với sự giúp đỡ tận tỡnh của
NHNN và Bộ tài chính cùng với nhiều ngành hữu quan khác, bộ máy chuẩn
bị xây dựng TTCK đó kết nối “mạng toàn cầu” rất sớm. Ngay khi đƣợc
thành lập, UBCKNN đó thiết lập mối liờn hệ với Cơ quan Nhà nƣớc quản
lý hoạt động kinh doanh chứng khoán và với TTCK của một số Tổ chức
quốc tế nhƣ: Công ty Tài chính Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng
phát triển Châu Á, Quỹ tiền tệ Quốc tế và một loạt quốc gia nhƣ: Trung
Quốc, Mỹ, Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Hàn Quốc, Thái Lan …[43,
tr.65] Chúng ta đó nhận đƣợc từ các tổ chức cũng nhƣ những quốc gia đó
sự hỗ trợ tích cực cả về phƣơng diện vật chất, kỹ thuật, tổ chức lẫn đào tạo
nhân lực, tri thức và kinh nghiệm. Ở một tầm nhỡn xa hơn, sự liên kết này
cũn hƣớng tới một tƣơng lai nối mạng kinh doanh chứng khoán giữa các thị
trƣờng liên quốc gia. Điều đó khiến cho TTCK Việt Nam ngay từ đầu đó
32
tạo đƣợc sức hấp dẫn quốc tế và việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trở nờn
dễ dàng, thuận lợi hơn.
Nhƣ vậy, đến những năm 90 của thế kỷ XX, những tiền đề cơ bản về
kinh tế - xó hội cho sự xuất hiện TTCK ở Việt Nam đó đƣợc tạo lập. Mặc
dù trong những năm đầu tiên, TTCK chƣa thực sự xác lập đƣợc vị trí theo
đúng chức năng của mỡnh trong nền kinh tế nhƣng đó tạo ra một bƣớc phát
triển mới cho thị trƣờng vốn của đất nƣớc. Theo thời gian, TTCK ngày
càng đƣợc củng cố và phát triển đó cú những tỏc động lớn tới nền kinh tế
đất nƣớc, ở một mức độ nào đó TTCK khiến cho kinh tế Việt Nam trở nên
sôi động hơn trong những năm gần đây.
b, Sự xỏc lập và hoạt động của TTCK Việt Nam (1996 - 2008)
* Sự xỏc lập TTCK Việt Nam (1996 - 2008)
Xõy dựng và phỏt triển TTCK là mục tiờu đó đƣợc Đảng và Chớnh
phủ Việt Nam định hƣớng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ XX) nhằm
xỏc lập một kờnh huy động vốn mới cho đầu tƣ phỏt triển. Việc nghiờn
cứu, xõy dựng đề ỏn thành lập TTCK đó đƣợc nhiều cơ quan Nhà nƣớc,
cỏc Viện nghiờn cứu phối hợp đề xuất với Chớnh phủ.
Một trong những bƣớc đi đầu tiờn cú ý nghĩa khởi đầu cho việc xõy
dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiờn cứu xõy dựng và
phỏt triển thị trƣờng vốn thuộc Ngõn hàng Nhà nƣớc (Quyết định số
207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc NHNN) với nhiệm vụ
nghiờn cứu, xõy dựng đề ỏn và chuẩn bị cỏc điều kiện để thành lập TTCK
theo bƣớc đi thớch hợp [54]. Theo sự uỷ quyền của Chớnh phủ, NHNN đó
phối hợp với Bộ Tài chớnh tổ chức nghiờn cứu về cỏc lĩnh vực liờn quan
đến hoạt động của TTCK, đề xuất với Chớnh phủ về mụ hỡnh TTCK Việt
Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về chứng khoỏn và TTCK cho một bộ phận
nhõn lực quản lý và vận hành thị trƣờng trong tƣơng lai; nghiờn cứu, khảo
sỏt thực tế một số TTCK trong khu vực và trờn thế giới... Tuy nhiờn, với tƣ
33
cỏch là một tổ chức thuộc NHNN nờn phạm vi nghiờn cứu, xõy dựng đề ỏn
và mụ hỡnh TTCK khú phỏt triển trong khi TTCK là một lĩnh vực cần cú
sự phối hợp, liờn kết của nhiều ngành, nhiều tổ chức.
Vỡ vậy, thỏng 9/1994, Chớnh phủ quyết định thành lập Ban soạn
thảo Phỏp lệnh về chứng khoỏn và TTCK do một đồng chớ Thứ trƣởng Bộ
Tài chớnh làm Trƣởng Ban, với cỏc thành viờn là Phú Thống đốc NHNN,
Thứ trƣởng Bộ Tƣ phỏp. Trờn cơ sở Đề ỏn của Ban soạn thảo kết hợp với
đề ỏn của NHNN và ý kiến của cỏc Bộ, ngành liờn quan ngày 29/6/1995,
Thủ tƣớng Chớnh phủ đó cú Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban
chuẩn bị tổ chức TTCK giỳp Thủ tƣớng Chớnh phủ chỉ đạo chuẩn bị cỏc
điều kiện cần thiết cho việc xõy dựng TTCK ở Việt Nam. Sau khi những
điều kiện cần thiết đƣợc hoàn thiện, Chớnh phủ đó thành lập UBCKNN với
chức năng “đỡ đầu” cho TTCK Việt Nam [54].
Ngày 28/11/1996, UBCKNN đƣợc thành lập theo Nghị định số
75/CP của Chớnh phủ, là cơ quan thuộc Chớnh phủ thực hiện chức năng tổ
chức và quản lý Nhà nƣớc về chứng khoỏn và TTCK. Việc thành lập cơ
quan quản lý TTCK trƣớc khi thị trƣờng ra đời là bƣớc đi phự hợp với chủ
trƣơng xõy dựng và phỏt triển TTCK ở Việt Nam và cú ý nghĩa quyết định
cho sự ra đời của TTCK.
Ngay sau khi UBCKNN đƣợc thành lập, mọi cụng tỏc đƣa TTCK
vào hoạt động đó đƣợc tiến hành mạnh mẽ. Ngày 10/7/1998, Thủ tƣớng
Chớnh phủ đó ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoỏn và
TTCK cựng với Quyết định thành lập hai Trung tõm giao dịch chứng
khoỏn (TTGDCK) tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chớ Minh [52].
Ngày 20/7/2000 TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh đó đƣợc thành
lập. Việc thành lập của TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đƣợc coi là sự
kiện đánh dấu sự ra đời của TTCK ở Việt Nam. Nhƣng nhƣ trên đó núi, sự
ra đời của TTCK Việt Nam có sự khác biệt so với nhiều quốc gia trờn Thế
34
giới, đó là UBCKNN đƣợc thành lập tƣơng đối sớm so với đối tƣợng quản
lý của nú là TTCK hơn 3 năm. Vỡ vậy, dự TTCK chỉ thực sự chớnh thức đi
vào hoạt động vào tháng 7 năm 2000 nhƣng có thể coi năm 1996 là năm
khởi đầu cho sự ra đời của TTCK Việt Nam.
Sau 7 năm với sự tăng trƣởng của thị trƣờng và hội nhập với TTCK
thế giới, TTGDCK thành phố Hồ Chớ Minh đó chớnh thức đƣợc Chớnh
phủ ký Quyết định số 599/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 chuyển đổi thành Sở
giao dịch chứng khoỏn (SGDCK) thành phố Hồ Chớ Minh. Ngày 8/8/2007
SGDCK đƣợc khai trƣơng, tờn giao dịch quốc tế là: Hochiminh Stock
Exchange (viết tắt là HOSE). [52].
TTGDCK Hà Nội đƣợc Quyết định thành lập cựng với TTGDCK
thành phố Hồ Chớ Minh vào ngày 10/7/1998 nhƣng phải đến năm 2005
mới chớnh thức đi vào hoạt động. Theo chủ trƣơng của Chớnh phủ,
TTGDCK Hà Nội sẽ phỏt triển theo hƣớng trở thành một thị trƣờng giao
dịch phi tập trung (OTC). Theo đó, TTGDCK Hà Nội sẽ phỏt triển theo hai
giai đoạn: Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007: thực hiện đấu giỏ cổ phiếu cỏc
DNNN cổ phần hoỏ và đấu thầu trỏi phiếu Chớnh phủ đồng thời tổ chức
giao dịch chứng khoỏn chƣa niờm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch. Giai
đoạn sau 2007, phỏt triển TTGDCK Hà Nội thành thị trƣờng phi tập trung
phự hợp với quy mụ phỏt triển TTCK Việt Nam. Việc xõy dựng mụ hỡnh
hoạt động cụ thể cho TTGDCK Hà Nội cú một ý nghĩa quan trọng, vừa đáp
ứng nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế, vừa phự hợp với quy mụ và lộ trỡnh
phỏt triển của TTCK Việt Nam [51].
Nhƣ vậy, với sự ra đời và hoạt động của hai TTGDCK, TTCK Việt
Nam đó chớnh thức đi vào hoạt động. Tuy nhiờn, để hoàn thiện hơn nữa
TTCK, ngày 29/6/2006 Luật chứng khoỏn đó đƣợc Quốc hội khoỏ XI
thụng qua và cú hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 [26, tr.150]. Với sự ra
đời của Luật chứng khoỏn, TTCK Việt Nam về cơ bản đó đƣợc hoàn thiện.
35
Hệ thống cơ sở phỏp lý đặt nền tảng cho sự phỏt triển ổn định và bền vững
của thị trƣờng. Cú thể núi, Luật chứng khoỏn ra đời đó hoàn tất những
bƣớc đi cơ bản cho quỏ trỡnh hỡnh thành TTCK Việt Nam.
Chỉ sau 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đó đƣợc mở rộng mạnh
về quy mụ và tăng nhanh về giỏ trị vốn hoỏ thị trƣờng. Trong những năm
đầu mới chỉ cú một vài cổ phiếu đƣợc giao dịch với tổng số vốn 27 tỷ đồng
và 6 cụng ty chứng khoỏn thành viờn. Hơn 6 năm hoạt động, mức vốn hoỏ
của thị trƣờng mới chỉ tăng lờn 0,5 tỷ USD. Đến năm 2007, mức vốn hoỏ
của TTCK Việt Nam đó tăng đột biến, thỏng 12/2006 đạt 13,8 tỷ USD
(chiếm 22,7% GDP) và đến cuối thỏng 4/2007 đạt 24,4 tỷ USD (chiếm
38% GDP), tăng hơn 1.400 lần so với năm 2000 và nếu tớnh trỏi phiếu thỡ
đạt mức 46% GDP [55].
Số lƣợng doanh nghiệp niờm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn
đầu tƣ giỏn tiếp nƣớc ngoài (FII) đổ vào TTCK Việt Nam cũng cú sự gia
tăng đáng kể. Tớnh đến cuối năm 2007, cỏc NĐT nƣớc ngoài đó đầu tƣ vào
TTCK nƣớc ta khoảng 4 tỷ USD [55].
Chỉ số VN-Index cũng đó chứng minh sự tăng trƣởng nhanh chúng
của thị trƣờng. Nếu trong phiờn giao dịch đầu tiờn ngày 28/7/2000, VNIndex ở mức 100 điểm thỡ thỏng 3/2007 chỉ số này đó đạt mức kỷ lục trờn
1.170 điểm, trong suốt những quý đầu năm 2007, chỉ số này luụn dao động
xung quanh ngƣỡng 1.000 điểm (giữa thỏng 5/2007 đó lờn 1.060 điểm),
tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Đặc biệt, số lƣợng cỏc NĐT mới tham
gia thị trƣờng ngày càng đông. Tớnh đến cuối thỏng 12/2006, cú trờn
120.000 tài khoản giao dịch chứng khoỏn đƣợc mở, trong đó gần 2.000 tài
khoản của NĐT nƣớc ngoài. Đến năm 2008, số lƣợng tài khoản giao dịch
của cỏc NĐT đó lờn tới khoảng 300.000 tài khoản, trong đó cú trờn 7.000
tài khoản của NĐT nƣớc ngoài. Số lƣợng cỏc NĐT cú tổ chức cũng tăng
lờn đáng kể, đến năm 2007 đó cú 35 Quỹ đầu tƣ đang hoạt động tại Việt
36
Nam, trong đó cú 23 quỹ đầu tƣ nƣớc ngoài và 12 quỹ đầu tƣ trong nƣớc.
Ngoài ra, cũn cú gần 50 tổ chức đầu tƣ theo hỡnh thức uỷ thỏc qua cụng ty
chứng khoỏn [55].
Cú thể núi, dự mới ra đời nhƣng TTCK Việt Nam đó thu hỳt đƣợc sự
quan tõm của đông đảo cụng chỳng và toàn xó hội. Do vậy, chỉ trong một
thời gian ngắn TTCK đó đạt đƣợc những con số ấn tƣợng, nhanh chúng trở
thành thị trƣờng vốn quan trọng cho nền kinh tế đất nƣớc.
* Hoạt động của TTCK Việt Nam (1996 - 2008)
Ngày 28/7/2000, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh chính thức hoạt
động phiên đầu tiên, chỉ với hai loại cổ phiếu của hai công ty REE (CTCP
Cơ điện lạnh) và SAM (CTCP Cáp và vật liệu viễn thông) có vốn điều lệ
tổng cộng khoảng 270 tỷ đồng. Thị trƣờng lúc đó chỉ có hai loại trái phiếu
chính phủ với tổng giá trị niêm yết 600 tỷ đồng. Nếu trong những ngày
đầu, thị trƣờng chỉ họp 3 phiên giao dịch/ tuần và giá trị mỗi phiên giao
dịch chỉ vài chục triệu đồng thỡ cho tới năm 2005, TTCK đó hoạt động
tƣơng đối ổn định và tăng trƣởng khá. Tính đến ngày 30/4/2005, trên thị
trƣờng đó cú 28 cổ phiếu và một chứng chỉ quỹ đầu tƣ niêm yết với tổng
giá trị vốn hoá (tính theo thị giá cổ phiếu) đó lờn tới 4.500 tỷ đồng và 227
loại trái phiếu với gần 27.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, với quy mô nhƣ vậy,
dung lƣợng thị trƣờng vẫn là quá nhỏ, chỉ khoảng 2% GDP [26, tr.121] vào
thời kỳ đó nên sự vận động của chỉ số chứng khoán (VN Index) chƣa phản
ánh đúng trạng thái vận động của nền kinh tế.
Trong 5 năm đầu tiên, TTCK Việt Nam đó cú những tăng trƣởng
nhất định song nhỡn chung vẫn cũn gặp nhiều khú khăn. Chỉ số VN-Index
không ổn định, khoảng cách dao động quá lớn. Ví nhƣ: khi khai trƣơng
TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh, VN-Index là 100 điểm vào tháng
12/2000 thỡ đến ngày 25/06/2000 chỉ số đó tăng vọt lên 571,04 điểm rồi lại
giảm liờn tục xuống cũn 130,91 điểm (ngày 24/10/03). Sau đó thỡ dao
37
động ở mức 250 điểm [11, tr.35]. Tuy nhiờn, với sự nỗ lực của Chính phủ
và Nhà nƣớc, sự biến động thất thƣờng và quá lớn của chỉ số chứng khoán
đó đƣợc khắc phục. UBCKNN đó chỉ đạo TTGDCK thành phố Hồ Chí
Minh áp dụng nhiều biện pháp để kích cầu trên thị trƣờng. Đến năm 2005,
TTGDCK Hà Nội đƣợc khai trƣơng, cổ phiếu cũng quyết định chuyển
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nƣớc thành CTCP … Các biện pháp này đó
tỏc động tích cực tới tăng lƣợng cầu chứng khoán trên thị trƣờng. Nhờ đó,
TTCK Việt Nam đó hỡnh thành xu hƣớng tăng trƣởng mới, kéo VN-Index
nhanh chóng vƣợt ngƣỡng 320 điểm và đạt mức cao nhất trong năm là
322,59 điểm vào phiên thứ 1.162 ngày 7/11/2005 [48, tr.62]. Đồng thời đây
cũng là bƣớc khẳng định của Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực mở cửa
TTCK theo cam kết tiến trỡnh gia nhập WTO.
Năm 2006, cầu chứng khoán tăng nhanh và mạnh là một trong những
nguyên nhân cơ bản khiến cổ phiếu của các công ty niêm yết tăng giá liên
tục. Mức tăng giá cổ phiếu niêm yết trên các TTGDCK là khoảng 2,5 lần
làm cho VN-Index tăng từ 305,28 điểm (vào 31/12/2005) lên 751 điểm
(vào 31/12/06), tăng hơn 2,46 lần; HASTC-Index tăng từ 91,3 điểm (vào
31/12/2005) lên 242,89 điểm (vào 31/12/2006), tăng hơn 2,66 lần. Khối
lƣợng giao dịch cuối năm tại hai TTGDCK tăng đột biến, trung bỡnh đạt
600 đến 700 tỷ đồng/ phiên tại TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh và
khoảng 100 tỷ đồng tại TTGDCK Hà Nội trong tháng 12/2006 so với 79,5
tỷ đồng/ phiên trƣớc năm 2005. Điều đó cho thấy TTCK đó thu hút mạnh
mẽ các NĐT trong và ngoài nƣớc tham gia giao dịch [40, tr.24].
Bên cạnh thị trƣờng niêm yết, các NĐT cũn tớch cực tham gia đấu
giá cổ phiếu của các doanh nghiệp Nhà nƣớc đó cổ phần hoỏ ở thị trƣờng
thứ cấp. Những tháng cuối năm 2006, các đợt đấu giá cổ phần của các
doanh nghiệp cổ phần hoá tại các TTGDCK đó tạo ra lƣợng cầu lớn gấp
nhiều lần lƣợng cung cổ phiếu. Do đó, tổng giá trị vốn hoá thị trƣờng của
38
cổ phiếu vào ngày 31/12/2006 là 221.156 tỷ đồng, đây chính là lƣợng cầu
thực của TTCK về cổ phiếu tại thời điểm đó [26, tr.127].
Bƣớc sang năm 2007, TTCK trở thành điểm quan tâm hàng đầu
không chỉ của Chính phủ, Nhà nƣớc, các NĐT mà cũn của đông đảo công
chúng trong cả nƣớc. Vào quý II năm 2007, TTCK Việt Nam bƣớc vào thời
kỳ phát triển sôi động và núng bỏng nhất. Tính đến cuối tháng 3/2007, VNIndex tăng trên 200% so với đầu năm 2006, điều này cho thấy quy mô của
thị trƣờng đó đƣợc mở rộng không chỉ về số lƣợng các công ty niêm yết mà
cũn tăng nhanh về giá trị giao dịch. Vào tháng 11/2006, chỉ số này là 660
điểm thỡ đến ngày 12/03/2007 đạt đỉnh 1.170,67 điểm (cho tới thời điểm
hiện nay, chƣa có một phiên giao dịch nào vƣợt qua đƣợc ngƣỡng đó), đến
cuối tháng 03/2007 vẫn ở mức 1.100 điểm. Vào tháng 04/2007, chỉ số này
bắt đầu giảm và đến ngày 31/12/2007 chỉ cũn 927,02 điểm. Và kể từ thời
gian này trở đi, TTCK bắt đầu có dấu hiệu suy giảm, đặc biệt từ tháng 6 7/2007 cho tới cuối năm 2008, TTCK vẫn chƣa cú dấu hiệu phục hồi [50].
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian tháng 6/2007 đến tháng 6/2008
TTCK mới chỉ bắt đầu bộc lộ những bất ổn của mỡnh. Tõm lý cỏc NĐT
dao động, giá chứng khoán mất ổn định, chỉ số VN-Index giảm mạnh, đầu
tiên là phá vỡ mức 1.000 điểm (ngày 16/07/2007). Từ đó đến nay, VNIndex liên tục thiết lập những đáy mới, có thể thấy diễn biến của TTCK
trong những phiên giao dịch ảm đạm qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1.2: Biểu đồ Vn-Index từ ngày 23/7/2007 đến ngày
3/8/2007
39
(Nguồn SSC)
Mặc dù Chính phủ đó đƣa ra rất nhiều biện pháp nhằm phục hồi lại
thị trƣờng, song do TTCK của Việt Nam cũn non yếu lại chịu sự tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên đó rơi vào suy thoái nghiêm
trọng, đến nay vẫn chƣa có dấu hiệu hồi phục.
Những quý cuối của năm 2007 khép lại với niềm hy vọng TTCK
năm 2008 sẽ khởi sắc hơn. Song năm 2008 vẫn là một năm “buồn” của
TTCK và phiên giao dịch cuối cùng của năm là một phiên giao dịch giảm
điểm. Hàn thử biểu kết thúc phiên chỉ đạt 315,62 điểm, một con số mang
lại nhiều thất vọng cho các NĐT.
Thời gian suy thoái của TTCK kéo dài đó cú những tỏc động lớn tới
nền kinh tế nói chung, tuy nhiên theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong
nƣớc và quốc tế thỡ TTCK Việt Nam cũn rất nhiều triển vọng và tiềm năng
phát triển. Trong thời gian tới TTCK chắc chắn sẽ sớm lấy lại quy mô cũng
nhƣ tốc độ tăng trƣởng thực sự của mỡnh. Cú thể tổng kết quy mụ phỏt
triển của TTCK Việt Nam theo bảng sau:
40