1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

2 Khái niệm truyện ngắn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.46 KB, 109 trang )


gì cũng thành biến cố, thậm chí sự thiếu vắng tình tiết, diện biến cũng gây

hiệu quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị hẫng hụt” [35 , tr.12 ].

Như vậy qua các tài liệu hiện hành và ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu,

phê bình và các nhà văn chúng tôi thấy truyện ngắn là một khái niệm rất khó

xác định cả về phương diện nội dung và hình thức. Lí luận về truyện ngắn

trở nên phong phú hơn nhờ ý kiến, kinh nghiệm của các nhà sáng tác từ

những Sêkhốp, Môom Môham, E.Hêminuê, An-tô-nôp.. ở nước ngoài, đến

những Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc,

Nguyễn Kiên… ở nước ta.

Tuy nhiên, qua các tài liệu viết về truyện ngắn mà chúng tôi tiếp cận

được, chúng tôi thấy ý kiến của các nhà lí luận nhất là ý kiến của các nhà

sáng tác quả là có nhiều điểm không thống nhất, đặc biệt khi so sánh truyện

ngắn và tiểu thuyết về tính chất (chứ không phải độ ngắn dài)-một vấn đề

then chốt để xác định thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn nhiều ý kiến cho

rằng, so với tiểu thuyết, truyện ngắn thường đề cập đến những vấn đề có

tính thời sự nóng hổi và thuộc về vấn đề đời sống hàng ngày của con người,

nội dung truyện ngắn đơn giản hơn, thường chỉ có một chủ đề, ít nhân vật

hơn, cốt truyện ít phức tạp, thường chỉ là một lát cắt, một khúc, hay một

khoảnh khắc nào đó của cuộc đời nhân vật…

Mặc dù chưa đi đến thống nhất về định nghĩa nhưng phần lớn các nhà

văn và các nhà nghiên cứu đều đồng ý cho rằng, truyện ngắn là một hình

thức tự sự cỡ nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một vài biến cố

trong đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật,

một khía cạnh nào đó của xã hội. Truyện ngắn có tính quy định về dung

lượng, cốt truyện, nghệ thuật xây dựng và khắc họa tính cách nhân vật cũng

như nhiều đặc điểm khác về thời gian, không gian, biến cố, chi tiết nghệ

thuật.



16



Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi không có ý

đi tìm một định nghĩa chuẩn về thể loại truyện ngắn cũng như không có

tham vọng xây dựng khung đặc điểm về thể loại văn học này. Như vậy để

khảo sát về truyện ngắn không nhất thiết phải có một định nghĩa về truyện

ngắn tương ứng với mọi trường hợp trong thực tế văn học. Điều quan trọng

là xác định đâu là những bình diện quan trọng nhất xét về thể loại truyện

ngắn mà các phong cách truyện ngắn khác nhau đều bộc lộ những đặc trưng

cơ bản. Những bình diện này, một mặt phải là chung cho các loại truyện

ngắn, hay nó là những “linh kiện” không thể thiếu của cơ chế truyện ngắn,

đồng thời là nơi mà các phong cách truyện ngắn khác thể hiện những sáng

tạo độc đáo nhất.

Do vậy, xuất phát từ việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn dưới

góc độ thể loại nên chúng tôi tập trung vào những bình diện cơ bản sau của

truyện ngắn để tìm hiểu về phong cách nghệ thuật nhà văn:

-Khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật: cảm quan về thế giới và con người

-Sự sáng tạo tình huống truyện

-Kết thúc truyện, cách mở đầu, kết thúc

-Nhân vật truyện

-Nghệ thuật trần thuật

-Ngôn ngữ

Mặc dù 6 bình diện trên đây chưa bao quát được đầy đủ các vấn đề của

phong cách truyện ngắn, nhưng đó là 6 bình diện cơ bản nhất, mà trong

khuôn khổ của luận văn, cần xác định và tìm hiểu. Bên cạch đó không phải

một phong cách nhà văn nào cũng có những sáng tạo độc đáo ở cả 6 bình

diện trên. Chính vì vậy mà trong giới hạn của đề tài sẽ đi phân tích bám vào

các bình diện của phong cách nghệ thuật truyện ngắn, dựa vào đặc điểm của

mỗi tác phẩm, trong những giai đoạn sáng tác nhất định.



17



1. 3. Hành trình sáng tác của nhà văn Thạch Lam.

1. 3.1. Con người và sự nghiệp văn chương của Thạch Lam.

Thạch Lam là nhà văn đã trở nên thân thiết với bao thế hệ bạn đọc, từ

khi ra đời cho đến ngày hôm nay. Mặc dù nhà văn đã qua đời khi tuổi còn rất

trẻ. Ông mắc bệnh lao và mất khi tuổi 32 (1942) cái tuổi mà tài năng đang đến

độ chín và nổ rộ và để lại cho bạn bè niềm thương tiếc về một tài nghệ văn

chương. Dù thời gian cầm bút trong khoảng mười năm nhưng Thạch Lam đã

để lại cho đời những áng văn chương mà cho đến nay vẫn còn sự hấp dẫn với

bạn đọc. Đó là những trang truyện ngắn giàu chất trữ tình, giàu tình yêu

thương, đẹp đẽ và thấm đượm tình người.

Thạch Lam sinh ngày 7/7/1910 tại ấp Thái Hà- Hà Nội. Khi mới sinh đặt

tên là Nguyễn Tường Sáu, đến khi đi học tại trường huyện Cẩm Giàng thì khai

sinh lại là Nguyễn Tường Vinh. Năm mười lăm tuổi vì cần thêm tuổi để thi

vượt cấp ông lại khai sinh lại và lấy tên là Nguyễn Tường Lân và cái tên đó

giữ nguyên cho đến khi nhà văn qua đời. Ngoài bút hiệu Thạch Lam ông còn

một số bút danh khác như Việt Sinh, Thiện Sĩ.

Cha Thạch Lam là cụ Nguyễn Tường Nhu quê ở làng Cẩm Phổ, Hội An

(Quảng Nam). Ông nội Thạch Lam nguyên là tri huyện Cẩm Giàng (Hải

Dương), trong thời gian làm quan đã cùng một người đồng sự trở thành thông

gia. Ông Nguyễn Tường Nhu thành thân với con gái của ông Lê Quang

Thuận là bà Lê Thị Sâm, sinh hạ đựơc bảy anh em và Thạch Lam là con thứ

sáu.

Tuổi thơ Thạch Lam sống ở quê ngoại phố huyện Cẩm Giàng, Hải

Dương. Cả thời thơ ấu của ông gắn liền với phố huyện nhỏ bé này và cũng từ

những kỷ niệm này mà nhà văn đã đưa vào trang văn của mình những truyện

ngắn thành công. Và Cẩm Giàng là quê hương văn học của ông



18



Trong gia đình của Thạch Lam có bảy anh em nhưng chỉ có một chị gái

duy nhất là Nguyễn Thị Thế. Chị ở nhà lo nội trợ còn sáu anh em đều được

học hành tử tế và đỗ đạt cao. Anh cả của Thạch Lam là Nguyễn Tường Thụy

(1903) là chuyên viên cao cấp của ngành Bưu điện. Anh thứ hai là Nguyễn

Tường Cẩm (1904) là kĩ sư canh nông. Ông Cẩm là người sau nay giữ chức

quản trị cho các cơ sở văn hóa của Tự lực văn đoàn. Anh trai thứ ba là

Nguyễn Tường Tam (1905) có bút danh là Nhất Linh, là người sáng lập ra Tự

lực văn đoàn và tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay...Nguyễn Tường Long (1907)

là anh thứ tư, có bút danh là Hoàng Đạo, Tứ Ly cũng là thành viên của nhóm

Tự lực văn đoàn. người thứ năm là Nguyễn Thị Thế (1909) là mẹ của nhà văn

Thế Uyên tác giả của những hồi kí viết về gia đình Nguyễn Tường. Thạch

Lam là con thứ sáu và người em út của nhà văn là bác sĩ Nguyễn Tường Bách.

Tên của bảy anh em nhà Thạch Lam được đặt theo bộ chữ “ Thụy Cẩm

Tam Long Vinh Bách Thế”, có nghĩa là ba con rồng bằng ngọc làm đẹp vinh

hiển cho đời.

Trong số bảy anh em thì “Thạch Lam là người thông minh nhất nhà” đó

là lời nhận xét của chị gái nhà văn. Nhưng cuộc đời nhà văn lại không suôn

sẻ, luôn gặp những bất trắc, những trở ngại trong cuộc đời, từ việc công danh

cho đến gia đình. Năm lên bảy tuổi thì cha mất (khi đang làm việc tại tòa công

sứ bên Lào). Gia đình bắt đầu lâm vào cảnh khó khăn. Mẹ nhà văn đã phải

ngược xuôi đủ nghề để kiếm sống nuôi các anh em ăn học. Các anh của

Thạch Lam đi học trên Hà Nội thỉnh thoảng mới về, ở nhà chỉ có hai chị em

(nhà văn và chi gái) trông quán hàng tạp hóa cho me. Những kỉ niệm êm đềm

thời thơ ấu cùng người chị gái bên phố chợ Cẩm Giàng đã theo nhà văn vào

những câu truyện của ông sau này như: Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ...

Khi nhà văn lên mười lăm tuổi ông làm lại giấy khai sinh, tăng tuổi để

vào học trường Canh Nông (Tuyên Quang) và thi đỗ vào trường Cao Đẳng



19



tiểu học. Sau một thời gian gia đình rời khỏi phố huyện Cẩm Giàng lên Hà

Nội, ông thôi không theo học trường Canh Nông và quyết định theo học

trường Albert Sarraut để thi tú tài. Đỗ tú tài một phần, ông không học tiếp nữa

mà quay về học với các anh trai tại nhà. Có một thời gian ông theo Hoàng

Đạo vào Sài Gòn ở với người anh thứ hai là Nguyễn Tường Cẩm đang làm Sở

Canh nông. Sau đó khoảng hai năm khi Hoàng Đạo bị đổi sang Lào thì ông

lại trở ra Hà Nội. Ông sống với gia đình và chuẩn bị đi du học bên Pháp cùng

Nhất Linh, nhưng chính quyền Pháp chỉ cho Nhất Linh đi. Năm 1932, Nhất

Linh sáng lập nên Tự lực văn đoàn và kể từ đây Thạch Lam bắt đầu sự nghiệp

sáng tác văn chương của mình.

Năm ông hai mươi lăm tuổi ông lập gia đình. Vợ ông là một người con

gái quê ở Ninh Bình, bà Nguyễn Thị Sáu là một người phụ nữ hiền lành nết

na, đoan trang yêu thương chồng con, khi Thạch Lam qua đời, bà đã ở vậy và

nuôi con khôn lớn.

Thạch Lam trong con mắt của người thân là người “mắt nâu và sâu, tóc

hơi đỏ” [1. tr352]. Theo chị gái kể lại rằng: Vinh có một cái áo mà cậu rất

thích “ Trong số đó có cái áo ma ga mà bà tôi bào người ta dệt bằng tóc, mua

cho thằng cả từ mười năm rồi” Vinh rất thích lấy ra sờ đi sờ lại cái áo này rồi

hỏi: Bà ơi người ta lấy tóc của ai mà dài thế ? Vinh ưa cái áo đó lắm vì mặc

ấm mà không bẩn vì bụi dính vào chỉ đập mấy cái là sạch. Tuy quý cái áo như

thế nhưng đến mùa đông thấy con chị Lê bên hàng xóm rét run cả ngày không

dám ra đường chơi cứ chúi vào ổ rơm Vinh đã cởi ra cho nó mặc.” Khi chị Lê

mang sang trả Vinh đã nói “cháu cho nó vì thấy nó rét quá. Cháu không thích

cái áo ấy nữa vì nó làm bằng tóc, mặc ngứa lắm. Cháu đã có cái áo di lê này

là đủ ấm rồi” [1. tr 352] Vinh đã biết nói khéo để chị Lê nhận nó mà không

thấy áy náy.



20



Khi còn nhỏ Thạch Lam là người có niềm say mê khám phá sự vật, muốn

nắm bắt được những gì mà mình cảm thấy thích thú. Chị gái của nhà văn kể

lại rằng ông thích ngắm tàu chạy qua phố “Hôm nào đi học, em tôi cũng cố đi

sớm để lên cầu đứng lọt vào cột sắt đợi tàu chạy qua”. Vinh còn mê bánh xe

tàu hỏa đến mức mạo hiểm “Nó giằng tay tôi chạy vọt lên, bò tới trước bánh

xe lấy tay sờ lấy làm thú lắm. Nó vẫy tay tôi theo vào gầm toa với nó: [46 .

tr354]. Hết say xe lửa Vinh lại chuyển sang mê thỏ “suốt ngày nó ngồi ngắm

hai con thỏ bạch mắt đỏ của một người quen cho” : [1. tr 354]. Sự say mê rất

trẻ thơ đó có thể là những khởi đầu của những tình cảm với thế giới xung

quanh và tạo cho nhà văn lòng yêu mến, say mê và nâng niu cuộc sống.

Trong số những anh em trong gia đình Thạch Lam là người có cuộc sống

vất vả về vật chất. Lấy vợ xong, ông ra ở căn nhà tranh ở đầu làng Yên Phụ:

“Nhà mái tranh, cổng gỗ giữ nguyên vẻ thanh sơ, tuy rằng nếu muốn chủ nhân

lợp mái ngói, xây tường gạch”, nhưng tuyên bố “ở được nhà lá, nằm được

giường tre, ăn được rau đậu mà vẫn tìm thấy cái đẹp của mái lá, cái êm của

giường tre, cái ngon của rau đậu mới là biết sống có nghệ thuật” {46 .tr 391].

Cuộc sống của Thạch Lam nghèo nhưng thanh lịch. Ông nghèo nhất so với

mấy anh em, lương làm báo chỉ có ba mươi đồng “không bao giờ nhận sự

giúp đỡ của ai, dù của mẹ hay các anh” [ 1 .tr 356].

Trong cuộc sống đời thường Thạch Lam là một người khá ít nói, rất

điềm đạm không bao giờ to tiếng với bất cứ ai. Về quan hệ bạn bè ông ít giao

du và ít bạn. Nếp sống của Thạch Lam tuy thanh bạch, thích yên tĩnh, nhưng

căn nhà ở Hồ Tây luôn đón những người bạn bạn thân thiết đến với tác giả.

Thạch Lam nghèo nên có lần tổ chức trung thu ông viết “viết thiếp mời bạn bè

đến dự nhưng lại chữa thêm là ai tới phải mang một món ăn theo”[1. tr536]

Năm 1932 Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn, từ đây Thạch Lam bắt

đầu sự nghiệp cầm bút của mình. Ông sáng tác bài cho các báo Phong Hóa,



21



Ngày Nay...với đủ các thể loại, truyện, tùy bút...Đương thời sách của Thạch

Lam bán không chạy, có thể nói là ế nhất Tự lực văn đoàn, nhưng những

truyện ngắn của ông vẫn mang một phong cách riêng, văn ông viết không

chạy theo thị hiếu thời thượng của người đọc. Đó là một lối viết tinh tế nhẹ

nhàng đậm chất thơ.

Chỉ trong một khoảng thời gian cầm bút ngắn ngủi ông đã để lại 35

truyện ngắn sau đó được tập hợp thành 3 tập truyện ngắn

1. Gió đầu mùa (Xuất bản 1937)

2. Nắng trong vườn (Xuất bản 1938)

3. Sợi tóc (Xuất bản 1942)

Ngoài ra ông còn có một tiểu thuyết Ngày mới (1939), tùy bút Hà Nội

băm sáu phố phường (1943) Theo Dòng, tiểu luận văn học (1941). Ông có

bốn tập Sách Hồng viết cho thiếu nhi với bút danh Thiện Sĩ Quyển Sách

(1940), Hạt Ngọc (1941), Hai chị em và Lên chùa.

Là người nghệ sĩ có tâm hồn lãng mạn yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp.

Và những sáng tác của ông chính là “sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất” và

chính ông là người suốt đời “chắt chiu cái đẹp” theo ông “cái đẹp man mác

khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm tiềm tàng ở mọi vật tầm thường.

Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ, tìm cái đẹp

kín đáo để che lấp của sự vật khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”

[20. tr 39.].

Trong toàn bộ truyện ngắn của ông ta thấy cái đẹp mà ông tìm kiếm

chính là cái đẹp của cuộc sống, của tâm hồn con người. Trong văn chương của

ông ta ít gặp những nhân vật phản diện, cái xấu, cái ác...Do vậy truyện ngắn

của ông ít ngột ngạt cùng quẫn mà thường tĩnh lặng thâm trầm đậm chất thơ.

Ông luôn hướng ngòi bút của mình vào những con người lao động nghèo khổ,



22



yêu thương và thức tỉnh họ. Ở điểm này Thạch Lam có nhiều tiến bộ và khác

xa với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn.

Sự nghiệp văn chương của Thạch Lam đã được độc giả mọi thời đại

khẳng định và đưa nó trở về đúng giá trị đích thực. Những tuyệt tác mà ông để

lại cho đời, được người đọc đón nhận bằng sự rung động trái tim, lí trí, bằng

sự đánh giá khoa học công bằng và thỏa đáng

Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam.

Khi nghiên cứu phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam,

chúng ta phải đặt những sáng tác của Thạch Lam với các nhà văn đương thời,

và đặc biệt là Tự lực văn đoàn. Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 do

Nguyễn Tường Tam (anh trai của nhà văn) khởi xướng với một tôn chỉ mục

đích tạo ra những tác phẩm văn chương có giá trị. Thành phần nòng cốt của

Tự lực văn đoàn gồm: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú

Mỡ, Thế Lữ, về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu và rất nhiều những cộng tác

viên khác. Cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn là tờ báo Phong Hóa, năm

1936 báo Phong Hóa bị đóng của thì có Ngày Nay thay thế. Tự lực văn đoàn

ra đời có những đóng góp nhất định cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Trong những người đóng góp đó phải kể đến Thạch Lam, ông là người đóng

góp nhiều nhất bằng những tác phẩm văn chương có giá trị, bằng những quan

niệm nghệ thuật tiến bộ. Ông tham gia Tự lực văn đoàn vì có mối quan hệ ruột

thịt và vì ông là người có sở trường viết văn.

“Khác với hai anh thứ nhất và thứ nhì không để ý và tha thiết với văn hóa,

cũng có khác với anh thứ ba và thứ tư quá say mê cách mạng, Thạch Lam

thường ngồi riêng một góc với vài bạn văn, cách biệt với tất cả như đôi mắt

sâu và tối” [1. 370 ] Đóng góp lớn nhất của Thạch Lam là ở hoạt động sáng

tác, ông trở thành một cây bút lớn của Tự lực văn đoàn và của văn học Việt

Nam đầu thế kỉ XX



23



Mặc dù trong Tự lực văn đoàn có tôn chỉ mục đích riêng của các sáng

tác văn chương, nhưng Thạch Lam vẫn tìm cho mình một con đường đi riêng,

một phong cách riêng không lẫn với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Ông

tham gia sáng tác rất nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí, phê bình

văn học. Truyện ngắn có tập Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc; tiểu

thuyết có Ngày mới; bút kí có Hà Nội băm sáu phố phường; tiểu luận phê

bình Theo dòng. Không giống với hai người anh Nhất Linh và Hoàng Đạo có

đời sống chính trị phức tạp, Thạch Lam hướng tới một xã hội công bằng và

nhiều yêu thương. Chính vì vậy mà phong cách nghệ thuật của Thạch Lam

mang một nét riêng biệt so với các nhà văn đương thời và những người anh

trong Tự lực văn đoàn. Những sáng tác của ông viết về thế giới nội tâm của

nhân vật, ông thường chú ý miêu tả những trạng thái tình cảm, những biến cố

tâm lí của nhân vật. Điều này đã làm cho truyện ngắn của Thạch Lam luôn thu

hút người đọc. Truyện Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó

diễn tả lại trạng thái cảm xúc của Liên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi

buổi chiều đi dần vào đêm tối ở phố huyện tràn ngập bóng tối. Hay trong

Cuốn sách bị bỏ quên ông đã khai thác tâm trạng đối lập của con người, đối

lập giữa hiện tại và ước mơ.

Những truyện ngắn của Thạch Lam đi sâu vào khám các trạng thái tâm lí

của nhân vật, cách tiếp cận khám phá con người trên phương diện đi sâu vào

những thế giới nội tâm, tinh thần của nhân vật đã tạo nên một nét độc đáo

trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam.

Không giống với phong cách của các thành viên trong Tự lực văn đoàn,

Thạch Lam thường viết về những con người có những số phận đau khổ bất

hạnh, những lớp người sống dưới đáy xã hội. Mỗi một kiểu nhân vật ông đều

đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, tinh thần của họ. Những nhân vật của

ông bao giờ cũng thiên về cảm xúc suy nghĩ. Ví dụ viết về người trí thức tiểu



24



tư sản Thạch Lam không lí tưởng hóa nhân vật như Khái Hưng, Nhất Linh

thích tạo ra những nhân vật lí tưởng. Nhân vật của họ thường là những người

xuất thân từ những gia đình giàu có, hoặc quan lại. Họ là những khách tình si

(Lộc -Nửa chừng xuân), hay những khách chinh phu (Tiêu sơn tráng sĩ- Khái

Hưng, Đôi bạn của Nhất Linh). Còn các nhân vật của Thạch Lam thường rơi

vào các hoàn cảnh như: đói nghèo, thất nghiệp, hoặc đang trên con đuờng tha

hóa...Đó là những truyện ngắn : Đói, Người bạn trẻ, cái chân què...Nhân vật

Sinh trong Đói đã rơi vào tình cảnh túng quẫn, vì đói qua mà Mai vợ anh phải

bán mình để lấy tiền. Khi phát hiện được điều đó quá đau đớn. Nhưng rồi cơn

đói đã không làm Sinh nhịn được khi nhìn thấy những miếng bánh ngon trước

mắt, Sinh đã phải đánh mất nhân cách của mình khi làm điều đó.

Trong khi những cây bút của Tự lực văn đoàn đi sâu vào miêu tả thế giới

của những con người nghèo khổ bằng cái nhìn ít thiện cảm, thì Thạch Lam

viết về những người nghèo khổ với nỗi lòng thương cảm. Họ là những người

chân lấm tay bùn, cả đời lam lũ nhưng vẫn vất vả. Ở kiểu nhân vật này nhà

văn như hóa thân vào nhân vật để viết nên những trang văn giàu cảm xúc

không giống với các nhà văn đương thời. Đó là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê, hay

cô gái nghèo đi trừ nợ trong Đứa con, là người phu xe trong Một cơn

giận...Thông qua những tác phẩm của mình người đọc thấy được thái độ trân

trọng đối với những con người nghèo khổ.

Một dạng nhân vật nữa được nhà văn tập trung miêu tả nhiều đó là những

người phụ nữ. Họ là những người mẹ, người vợ, người chị đảm đang. Ngoài ra

Thạch Lam còn phát hiện ra ở những con người lam lũ đó những vẻ đẹp trong

tâm hồn của họ. Thạch Lam miêu tả họ và đồng thời thấy được nỗi vất vả của

họ, những truyện ngắn viết về kiểu nhân vật này Thạch Lam dường như thấu

hiểu những nỗi đau của các nhân vật. Đó là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê, Tâm

trong Cô hàng xén, Hai cô gái giang hồ trong Tối ba mươi . Dù những nhân



25



vật đó như thế nào thì Thạch Lam vẫn dành cho họ những tình cảm nâng niu

trân trọng.

Bên cạnh những thành công về việc xây dựng riêng cho mình những

kiểu nhân vật mà một nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Thạch

Lam là thành công trong việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ văn chương điêu

luyện, trau chuốt, không cầu kì, giản dị trong sáng thuần Việt, ít sử dụng chữ

Nho. Đọc văn của Thạch Lam hôm nay ta vẫn thấy nó thật hiện đại, đó không

phải là những câu văn của quá khứ như một số sáng tác của Tự lực văn đoàn.

Thạch Lam có một lối viết giàu cảm xúc và nhạc điệu, từ ngữ dùng giản dị,

không cầu kì.

Như vậy có thể nói Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam,

mang một phong cách rất riêng, không giống với bất cứ nhà văn nào trong Tự

lực văn đoàn. Đó là một phong cách nhẹ nhàng, những trang văn giàu cảm

xúc, thấm đượm tình người. Ông có lối viết đi sâu vào khám phá thế giới tình

cảm của con người bằng giọng điệu thủ thỉ tâm tình, bằng những nỗi cảm

thông sâu sắc, bằng niềm thương và bằng tình người. Cuộc đời ông gắn bó với

sự ra đời và phát triển của Tự lực văn đoàn, bằng một khuynh hướng khác,

một cách nhìn và khám khá cuộc sống theo lối riêng mình, Thạch Lam đã xác

định được giá trị của mình với bạn đọc bằng một phong cách nghệ thuật riêng,

độc đáo.



26



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×