Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 110 trang )
Do vậy, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ chính xác, hàm súc, giàu hình tượng, biểu
cảm và giàu sức tưởng tượng. Các yếu tố đó hòa quyện vào nhau tạo nên hình tượng
thơ lung linh, đa nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm góp phần tạo nên tính
họa, tính nhạc trong thơ. Cũng có khi những từ ngữ trong câu thơ là những hư
từ hoặc từ địa phương, khẩu ngữ rất bình thường nhưng được đặt đúng vào vị trí câu
thơ thì nó vẫn tỏa sáng, diễn tả được đúng ý định của nhà thơ, khắc họa rõ nét nhân
vật trữ tình. Bởi thế mới có ý kiến rằng tính chính xác của từ ngữ trong thơ ca có
khi mang tính tuyệt đối, có khi chỉ là tương đối.
Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, vừa bằng khả năng
gợi cảm sâu sắc, vừa gián tiếp qua liên tưởng, tưởng tượng, vừa bằng sự rung động
của ngôn từ giàu nhạc điệu. Pautopxki trong cuốn “Bông hồng vàng” đã viết:
“Những chữ xơ xác nhất mà chúng ra đã nói đến cạn cùng, đã mất sạch tính chất
hình tượng, đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại sáng lấp lánh, lại kêu
giòn và tỏa hương”. Ngôn ngữ thơ có tính hình tượng, đây là sự phản ánh hiện thực
một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển
hình, được nhận thức trực tiếp bằng cảm tính. Nếu như hình tượng văn học là bức
tranh sinh động nhất của cuộc sống được xây dựng bằng ngôn ngữ nhờ có trí tưởng
tượng và óc sáng tạo và cách đánh giá của người nghệ sĩ; thì hình tượng thơ lại là
bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một
hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có vần điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách cảm
nhận của nhà thơ. Ngôn ngữ mang tính hình tượng là ngôn ngữ gợi hình cụ thể. Nhà
thơ không làm thơ bằng phạm trù của tư duy logic trong các môn khoa học tự
nhiên mà thông qua hình ảnh cụ thể để diễn đạt những ý niệm trừu tượng. Tính
biểu cảm trong thơ chính là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp hay gián tiếp qua mỗi từ
ngữ thơ. Đó là đầy đủ các cung bậc tình cảm của lòng người. Vì vậy, tính biểu cảm
của ngôn ngữ thơ trước hết phải xuất phát từ những xúc cảm chân tình, dào dạt của
nhà thơ bởi việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để biểu đạt xét cho cùng chỉ là phương
tiện, là chất liệu đóng góp nên thành công cho tác phẩm mà thôi.
88
2.2. Ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Khoa
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thành công cho nhà thơ,
“Góc sân và khoảng trời” ra đời khi Trần Đăng Khoa mới là một cậu bé mười tuổi
– Cái tuổi hồn nhiên, vô tư và nhạy cảm nhất khi quan sát, tìm hiểu về thế giới xung
quanh mình. Ở vào tuổi chưa hề biết gì đến những đặc điểm ngôn ngữ thơ, tính hàm
súc, tính xác…hay bất kì một lý thuyết nào khi nghiên cứu, phê bình thơ, vậy mà
Trần Đăng Khoa đã có những câu thơ xuất sắc – những câu thơ có một không hai
trong lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam. Những bài thơ hay nhất trong “Góc sân và
khoảng trời” cũng là những bài thơ hay nhất trong đời thơ Trần Đăng Khoa.
Ngôn ngữ thơ Trần Đăng Khoa đạt được những thành công vượt bậc như vậy là
do yếu tố về thể tài và giọng điệu thơ. Theo thống kê của tác giả Vũ Nho thì trong
số 108 bài thơ trong tập “Góc sân và khoảng trời” thì song thất lục bát có một bài,
riêng thể thơ lục bát chiếm số lượng lớn là 44 bài. Cũng qua tập thơ này, chúng ta
có thể liệt kê được khoảng 100 từ láy khác nhau, trong đó có những từ được lặp đi
lặp lại nhiều lần trong những dòng cảm xúc khác nhau. Tạm thời có thể chia thành
hai nhóm: Nhóm thứ nhất gồm những từ láy chỉ hình thái, tính chất, cách vận động
của thiên nhiên, sự vật, con người. Nhóm thứ hai gồm những từ láy diễn tả trạng
thái tâm lí, cảm xúc, cảm giác của con người, sự vật và hiện tương trong tự nhiên.
Việc sử dụng thuần thục các từ láy cho thấy Trần Đăng Khoa có một vốn từ vô cùng
phong phú, chính nguồn vốn này đã góp phần giúp nhà thơ thể hiện những tình cảm,
cảm xúc của mình một cách thành công. Thể tài thơ ca dân gian trong tập thơ này
chiếm ưu thế gần như tuyệt đối, những lối kể về, lối thơ lục bát…đều được nhà thơ
sử dụng hết sức nhuần nhuyễn và tự nhiên.
Đến giai đoạn viết “Bên cửa sổ máy bay”, hầu như không còn dấu vết của một
cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào, thay vào đó là chân dung một người lính Trường
Sa ngày một trưởng thành cùng những con sóng bạc đầu. Cùng với quá trình trưởng
thành ấy, tư duy thơ Trần Đăng Khoa cũng có sự chuyển biến, ảnh hưởng trực tiếp
đến yếu tố ngôn ngữ trong cả tập thơ. Nhà thơ hầu như không sử dụng những thể
thơ truyền thống mà thay vào đó là việc sử dụng gần như hoàn toàn thể tự do. Với
89
thể thơ này Trần Đăng Khoa có thể thoải mái bộc lộ những cảm xúc sâu kín của
mình với một tư duy thơ ngày càng mang tính chất hướng nội. Tuy nhiên, cũng phải
nhận ra rằng, bên cạnh những đóng góp về mặt thể tài và nghệ thuật trong giai đoạn
trưởng thành, thơ Trần Đăng Khoa trong giai đoạn này không tạo nên được sức hấp
dẫn đối với người đọc như những vần thơ viết trong giai đoạn thiếu nhi.
2.2.1. Ngôn ngữ trong thơ tự do
Trần Đăng Khoa viết “Góc sân và khoảng trời” khi là một chú bé mười tuổi –
Cái tuổi mà từ sự tò mò, ham học hỏi, nhà thơ đã tái hiện lại thế giới loài vật, thiên
nhiên cây cỏ bằng ngòi bút chính xác, mới mẻ và sinh động đến lạ lùng. Thơ tự do
chiếm một số lượng tương đối trong thơ Trần Đăng Khoa, đặc biệt là ở giai đoạn
sau khi tác giả đã trở thành một nhà thơ chiến sĩ. Nếu như trong “Góc sân và
khoảng trời”, những bài thơ tự do của Trần Đăng Khoa mang dáng dấp của những
bài đồng dao vần vè với kết cấu vòng tròn, lặp đi lặp lại – Một trong những nhịp
điệu bài hát quen thuộc với những em bé ở nông thôn; thì trong “Bên cửa sổ máy
bay” những bài thơ với ngôn từ trải dài như không có đoạn kết, đó là những dòng
tâm sự mang nặng chất suy tư của người lính về bản thân mình, về những người
đồng đội…Hẳn không ai có thể quên bài thơ “trình làng” đầu tiên của Trần Đăng
Khoa, đó là một bài thơ rất đặc biệt, gây ấn tượng lập tức với người đọc bởi âm
hưởng dân gian được thể hiện rất rõ – Bài “Con bướm vàng”. Cách kết cấu vòng
tròn với điệp khúc “Con bướm vàng” giống như những bài đồng dao, những câu hát
của trẻ chăn trâu, không phân biệt đâu là đầu, đâu là cuối. Bởi vậy mà câu thơ cứ
như được kéo dài ra mãi, khiến người đọc có thể hình dung là một bức tranh với
hình ảnh cánh bướm vàng đang bây rập rờn, xa dần rồi mất hút, để lại một mình cậu
bé thi sĩ đang nhìn theo với bao sự tiếc nuối. Kiểu kết cấu vòng tròn này còn được
nhà thơ thiếu nhi sử dụng trong những bài thơ khác với việc sử dụng ngôn từ ngày
càng uyển chuyển hơn, sáng tạo hơn. Trong bài “Kể cho bé nghe”, Trần Đăng Khoa
đã đưa vào thơ cả một thế giới loài vật với những đặc điểm riêng biệt rất ngộ
nghĩnh, thể hiện rõ tư duy của trẻ nhỏ với những tưởng tượng, liên tưởng rất độc
90
đáo: Hay nói ầm ĩ …Là cô chim trĩ. Việc lặp lại những âm cuối các câu cùng với lời
thơ ngắn gọn khiến bài thơ như một bài hát ngắn, rất dễ thuộc dễ nhớ. Từ câu thơ
đầu tiên đến câu thơ cuối cùng là một vòng tròn không có điểm ngắt, người đọc có
thể bắt đầu đọc lại từ những câu thơ đầu tiên mà không bị ngắt quãng về vần điệu,
những hình ảnh được nhà thơ đưa ra trong từng câu cũng không vì thế mà mất đi nét
ngộ nghĩnh, đáng yêu. Là một bài thơ tự do, với những câu thơ bốn chữ ngắn gọn
nhưng không vì thế mà thế giới loài vật trong thơ Trần Đăng Khoa bớt đi sự náo
động, đáng yêu. Lặp lại nhưng không nối thành vòng tròn, lặp lại nhưng không phải
là sự sao chép y nguyên mà là để gợi ra những cảm xúc mới, đấy chính là những
sáng tạo của Trần Đăng Khoa. Cũng là chủ đề về loài vật, song ở bài thơ “Em kể
chuyện này”, Trần Đăng Khoa đã tìm được những chữ chuẩn nhất, “đắt nhất” khi
miêu tả con vật
Này thằng Dói nhớ ai
Mà khóc mãi mắt đỏ ngầu như núi lửa
Này lão Trê nhảy võ ở đâu
Mà ngã bẹp đầu
Những câu thơ dài ngắn khác nhau nhưng đều đã tập trung thể hiện được những
đặc điểm tiêng biệt của mỗi loài động vật mà không hề có sự trùng lặp. Ngôn từ
cũng đã góp phần thể hiện tư duy của một em bé trong công cuộc tìm hiểu thế giới
xung quanh rồi tự mình tìm cách giải thích cho những sự vật, hiện tượng ấy. Thế
mới biết sự ngây thơ, hồn nhiên chính là những bảo bối có sức mạnh nhiệm màu mà
tạo hóa đã dành cho các em thiếu nhi.
Viết về mẹ, Trần Đăng Khoa cũng có những tứ thơ hay, “Khi mẹ vắng nhà” là
một bài thơ như vậy. Cậu bé đã liệt kê những công việc làm được khi mẹ đi vắng, từ
việc luộc khoai, cùng chị giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ vườn hay quét sân…để khi mẹ
về, nhận được lời khen từ mẹ, cậu bé hiếu thảo đã thốt lên
Không mẹ ơi! Con chửa ngoan đâu
Aó mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
91
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan, chưa ngoan
Trong bài thơ này, nhà thơ đã sử dụng cách kết cấu đối đáp, vế đầu tạo ra những
câu hỏi và từ những câu nghi vấn ấy mà khai triển thành tứ thơ. Phần lớn trong tác
phẩm nhà thơ chỉ sử dụng một vế là vế tạo câu hỏi, chỉ hỏi chứ không đáp. Đó là
một dạng câu hỏi tu từ, một biện pháp nghệ thuật mà khi đó cậu bé thi sĩ dù chưa
được học lý thuyết nhưng đã thực hành thành thạo và rất thành công. Chúng ta có
thể thấy dấu vết của sự đối đáp trong những bài thơ “Con chim hay hót”, “Hỏi
đường”, “Khi mẹ vắng nhà”, “Lời của than”, “Cây đa làng”…Kết cấu vòng tròn,
đối đáp là hai hình thức kết cấu được sử dụng nhiều nhất trong thơ Trần Đăng
Khoa. Bên cạnh đó một số khác như kết cấu so sánh, thời gian cũng được nhà thơ
sử dụng, có khi người đọc bắt gặp cả việc sử dụng lồng ghép các kết cấu này trong
cùng một tác phẩm để tạo nên hiệu quả tốt nhất cho nghệ thuật ngôn từ. Nếu như
trong những tập thơ viết thời thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, người đọc nhận thấy rõ
sự ảnh hưởng của yếu tố dân gian trong những bài thơ mang hơi hướng ca dao,
đồng dao, tục ngữ…thì đến tập “Bên cửa sổ máy bay”, chúng ta hầu như không còn
gặp lại các kiểu kết cấu vòng tròn hay đối đáp nữa. Hầu hết các sáng tác của Trần
Đăng Khoa trong tập thơ này đều là những bài được viết theo thể tự do. Tuy nhiên
những câu thơ không phải là sự ngắn gọn nhằm nhấn mạnh âm thanh, hình ảnh mà
thay vào đó là những dòng thơ dài chứa đầy chất tự sự trữ tình, thể hiện cái tôi cá
nhân lúc vui vẻ bên đồng đội, lúc lại cô đơn trong sự suy tư về con người, về cuộc
đời.
“Mưa” là một trong số những bài thơ gây ấn tượng mạnh mẽ đến người đọc cả
về thể thơ cả về cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ nhỏ tuổi. Chỉ với hơn một trăm
tiếng viết theo thể tự do, những câu thơ dài ngắn đan xen vào nhau như những giọt
mưa đang rơi dồn dập và khung cảnh tràn đầy sức sống của muôn loài: Sắp mưa –
Sắp mưa – Những con mối – Bay ra – Mối trẻ - Bay cao – Mối già – Bay thấp…Ông
trời – Mặc áo giáp đen – Ra trận… Khung cảnh sắp mưa rộn ràng, người đọc như
cảm nhận được mùi vị ngái nồng của đất, sự chuyển động của những loài vật chuẩn
92
bị đón mưa về. Mưa về khiến cỏ cây, hoa lá, muôn loài đều hả hê, sung sướng: Mưa
– Ù ù như xay lúa – Lộp bộp – Lộp bộp – Rơi – Rơi…Cóc nhảy chồm chồm – Chó
sủa – Cây lá hả hê…Những từ tượng thanh cùng cách ngắt nhịp 2/3, 2/2 đã diễn tả
chính xác nhất hình ảnh những hạt mưa đầu tiên đang rơi xuống mặt đất. Bên cạnh
đó, cách sử dụng những câu thơ như những vế đối đã đem lại hiệu quả không ngờ
cho người đọc. Biện pháp nhân hóa, so sánh đã khiến thiên nhiên không còn vẻ bí
hiểm, xa lạ mà trở nên gần gũi hơn với con người. Người đọc còn gặp lại cách sử
dụng từ ngữ như thế trong bài “Ò..ó…o”, nhạc điệu đi theo cảm xúc của con người
đã tạo nên nhịp 3/2/2, 3/2 rồi lại 3/2/2 và 3/3 thật nhịp nhàng: Ò..ó…o – Ò…ó…o –
Tiếng gà – Tiếng gà – Giục quả na – Mở mắt…Giục hạt đậu – Nảy mầm – Giục
bong lúa – Uốn câu…Nhà thơ Tố Hữu cho rằng: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất
của con người”, tình cảm trong thơ nảy sinh từ những rung động trực tiếp của nhà
thơ, nếu không có cảm xúc thì khó viết thành thơ chứ chưa nói gì đến viết được một
bài thơ hay. Thơ Trần Đăng Khoa không chỉ thể hiện những cảm xúc hồn nhiên,
trong sáng, mà bên cạnh đó còn mang tính hình tượng cao. Tình cảm đó là tình yêu
thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, với những người thân thiết xung quanh mình.
Khi mới bắt đầu làm thơ, thế giới của cậu bé chỉ giới hạn từ góc sân ra đến cánh
đồng và một khoảng trời xanh biếc rộng lớn – Thế giới riêng ấy ẩn chứa biết bao
điều mới mẻ và cũng vô cùng gần gũi với nhà thơ. Từ hình ảnh cây dừa “dang tay
đón gió, gật đầu gọi trăng”, những chị lúa “phất phơ bím tóc”, rồi những hạt thóc
vàng óng đang “thở hí hóp” trên sân…Tất cả những điều bình thường, giản dị ấy
khi vào trong thơ Trần Đăng Khoa đều mới mẻ, hấp dẫn đến kì lạ. Nhà thơ nhìn
tinh, nghe thính và có tầm quan sát tốt, thế nhưng sức nhìn đó đâu chỉ nhờ vào mắt,
sức nghe đó đâu chỉ cậy vào tai. Hình ảnh “thóc thở hí hóp” là cái nhìn có sự cộng
hưởng giữa liên tưởng và tưởng tượng. Có thể nói, Trần Đăng Khoa đã biết kết hợp
nhuần nhuyễn giữa các yếu tố nghe, nhìn, nghe nhìn với liên tưởng, tưởng tượng để
tạo ra sự chuyển đổi cảm giác, tạo nên sự tinh tế thú vị và độc đáo .
Nếu như khi nói đến ngôn ngữ thơ là đề cập đến tính chính xác, tính hàm súc,
tính biểu cảm và tính hình tượng, thì trong “Góc sân và khoảng trời” Trần Đăng
93
Khoa còn vận dụng được ngôn ngữ dân gian – Một điều đặc biệt khiến Trần Đăng
Khoa nổi trội hơn hẳn các nhà thơ thiếu nhi khác. Vốn liếng về thành ngữ, tục ngữ
và cả lối ví von so sánh cũng được cậu bé đưa vào thơ: Nhăn nhăn cái mũi hở mười
cái răng (Vườn cải), Cây lúa mừng vui phất cờ (Con cò trắng muốt), Cục cùng cung
trên bờ - Vào đây con cá ngão (Câu cá)…Đâu đó vẫn phảng phất bóng dáng ngôn
ngữ trong các bài hát đồng dao làm nhịp trò chơi cho trẻ nhỏ, cậu bé làm thơ hồn
nhiên chứ chưa ý thức được cách “nói chữ” - Một đặc điểm hay có trong thơ người
lớn. Những gì có được Trần Đăng Khoa chỉ sử dụng một phần chứ chưa có ý thức
sử dụng ngôn ngữ thơ dân gian vào để dân gian hóa thơ mình. Một trong những yếu
tố ảnh hưởng đến giọng điệu là cách xưng hô rất đặc biệt của nhà thơ, có thể thấy
cách xưng hô thân mật, có phần suồng sã trong thơ ca dân gian đã đi thẳng vào thơ
Trần Đăng Khoa. Bên cạnh việc xưng cháu, xưng em, xưng con…nhà thơ còn hay
xưng mày – tao rất tự nhiên và thân mật. Tính dân gian trong thơ Trần Đăng Khoa
còn thể hiện qua việc nhà thơ thường sử dụng các hình tượng có trong thơ ca cổ như
hình tượng con cò, con trâu, con kiến, cây đa, sân đình…Vẫn là cánh cò dân gian
nhưng Khoa đã thổi một luồn sinh khí mới để hình ảnh con cò có tính hiện đại hơn,
mang màu sắc cá nhân hơn. Con trâu vốn là một người bạn của người nông dân
cũng được cậu bé tái hiện trong thơ bằng sự ngộ nghĩnh, đáng yêu: Hếch cái mũi
trâu cười – Nhe cả hàm răng sún (Con trâu đen lông mượt).
Song song với những đặc điểm trên, chúng ta còn nhận thấy trong thơ Trần Đăng
Khoa viết giai đoạn đầu có một tần suất xuất hiện dày đặc của những biện pháp tu
từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ được sử dụng rất thành công. Từ cách sử dụng các
biện pháp tu từ này, nhà thơ đã tạo nên những bức vẽ vô cùng sinh động về thiên
nhiên, cỏ cây, con người. Những tưởng tượng, liên tưởng thù vị đã khiến những vật
vô tri vô giác, những khung cảnh quen thuộc nơi làng quê trở thành một thế giới
sinh động, ngộ nghĩnh. Từ “ếch nói”, “gió mời”, “chó nói”…nghệ thuật nhân hóa
đã khiến cho những sự vật này trở nên gần gũi hơn với con người. Mặt trăng khi thì
như “cái mâm con”, khi thì “sáng hơn đèn” nhưng cũng có khi trăng như một cậu
bé ham chơi, ham chơi đến mức còn thập thò ngoài cửa để rủ cậu bé Khoa đi chơi
94
cùng mình: Trăng thập thò ngoài cửa – Như muốn cùng đi chơi (Trông trăng). Nếu
như biện pháp so sánh, nhân hóa đem đến cho thơ Trần Đăng Khoa những bức tranh
sinh động, ngộ nghĩnh, thì những biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ, điệp ngữ cũng
đóng góp một phần quan trọng trong việc tạo dựng một thế giới ngập tràn âm thanh,
hương thơm và màu sắc.
Chim hót rung rinh cành khế
Hoa rơi tím cả cầu ao
Mấy chú rô ron ngơ ngác
Tưởng trời đang đổ mưa sao
(Ghi ở bờ ao)
Âm thanh, tiếng chim hót làm hoa khế rơi tím cả bờ ao, hình ảnh ẩn dụ “mưa
sao” đã tạo nên hiệu ứng hình ảnh đẹp, khép lại bức tranh nơi cầu ao quen thuộc để
đi vào lòng người đọc. Rồi trong “Cơn giông”, người đọc lại thấy thơ Trần Đăng
Khoa đọng lại biết bao suy nghĩ, không còn những hàng bưởi đang bế lũ con đầu
tròn trọc lóc ngộ nghĩnh nữa, thay thế vào đó là: Quả bòng chết chẳng chịu chìm –
Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu. Ẩn sau hình ảnh quả bòng, ao con là số phận chìm
nổi của biết bao con người – Một suy nghĩ rất trưởng thành ở một cậu bé tiểu học
khiến bao người đọc phải sững sờ, khâm phục. Nhạy cảm là vậy, song không vì thế
mà Trần Đăng Khoa xa rời tính cách hồn nhiên, tấm lòng nhân hậu luôn dành cho
thiên nhiên, cỏ cây và con người. Đề tài về thôn xóm tuy xuất hiện không nhiều
trong thơ Trần Đăng Khoa nhưng cũng đủ để người đọc cảm nhận được tình yêu
thương, gắn bó sâu đậm nhà thơ luôn hướng về quê hương mình. Hạt mẩy uốn cong
hứa hẹn một vụ mùa bội thu, chim ngói bay đầy đồng cho cải ngồng thêm hoa vàng
tươi, hình ảnh hoán dụ “tiếng cười nở” đã diễn tả chính xác tâm trạng rộn ràng, tràn
ngập niềm vui của những con người lao động trước một mùa thu hoạch no ấm. Thơ
Trần Đăng Khoa hay cái hay rất đặc biệt của trẻ thơ, đó là việc hồn nhiên nhìn thấy
gì thì ghi lại cái đó, cần mẫn như một người thư kí ghi chép lại tất cả những gì mới
lạ xung quanh mình. Việc sử dụng phương thức thêm nghĩa cũng thế, cậu bé làm
thơ khi vốn liếng chữ nghĩa chẳng có được là bao nhiêu, cũng không học cách làm
95
thơ hay cách sử dụng ngôn từ thế nào cho hay. Ấy vậy mà không hiểu sao cậu bé ấy
đã biết làm giàu thêm ngôn ngữ của mình bằng cách sử dụng để đạt được hiệu quả
cao các biện pháp khai thác ngữ âm, ngữ nghĩa. Khi viết “Trăng sáng sân nhà em”,
Trần Đăng Khoa không miểu tả nhiều về trăng mà lại chú trọng vào việc miêu tả
trạng thái im lặng đến sững sờ của cây cối khi chứng kiến việc quên không kêu của
chim, của sâu. Điệp ngữ “hàng cây”, “quên không kêu” được lặp lại nhằm diễn tả sự
tĩnh lặng đến tuyệt đối của cảnh vật. Hay như trong bài “Hương đồng”, Trần Đăng
Khoa đã ghi lại những cảm nhận tinh tế về mùi vị của đất đai, những mùi đặc trưng
quen thuộc với những con người quanh năm bên ruộng đồng.
Trong tập “Bên cửa sổ máy bay”, đa số các bài thơ được viết theo thể tự do
mang đậm chất trữ tình, khi là những tâm tư, tình cảm của những người đồng đội,
khi là lời tâm sự của tác giả khi nghĩ về tương lai phía trước
Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
…Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
(Thơ tình người lính biển)
Hoàn cảnh sống đã thay đổi, nhà thơ trưởng thành cũng dần chuyển hướng sang
những đề tài khác với sự chuyển biến của tư duy, vì thế việc sử dụng ngôn từ trong
thể thơ tự do ở đây cũng thay đổi theo. Cũng là những bài viết về chủ đề mưa,
nhưng mưa của thời thơ ấu nay đã lùi dần vào quá khứ, thay thế vào đó là ước mơ,
khát khao đến chảy bỏng được có mưa nơi hải đảo xa xôi. Nếu như trong những
tháng ngày thơ ấu, nhà thơ thích viết về những cơn mưa rào, ồ ạt đến rồi đi, thì ở
nơi đây, mỗi giọt mưa đều là những giọt vàng quý giá đem lại sự sống cho con
người.
Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
96
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn)
Nếu như trong những bài thơ thời thiếu nhi, Trần Đăng Khoa thích sử dụng
những câu thơ ngắn, nhằm diễn tả những hoạt động nhanh, tất bật của sự vật trước
những sự biến động của tự nhiên, thì trong những câu thơ viết trong giai đoạn này
lại là những câu thơ dàn trải như chính nỗi niềm tâm sự của tác giả. Số lượng những
câu thơ ngắn dài đan xen rất ít, hầu như không có. Tư duy thơ và cách biểu hiện
dường như có sự trái ngược nhau, nếu không có sự tương đồng, thấu hiểu giữa tác
giả và người đọc thì quả thật rất khó để lí giải hiện tượng này. Khi còn nhỏ, Trần
Đăng Khoa có tư duy thơ hướng ngoại, vạn vật đều là bạn, đều là đối tượng được
miêu tả nhưng lời thơ so với giai đoạn sau này tương đối ngắn gọn, thể hiện giọng
thơ hồn nhiên trong trẻo. Trong khi đó, ở giai đoạn sau, với tư duy thơ hướng nội,
nhà thơ lại phát triển những câu thơ dài thể hiện một giọng điệu trữ tình, tự sự.
Anh đã vượt qua những dốc bom dài
Những vùng đất thương đau, những khoảng trời sốt rét
(Em vào đại học)
Anh biết mặt trời lên, mặt trăng lặn
Những gương mặt đồng đội anh thì mãi mãi sáng ngời
(Về làng)
Sống cùng đồng đội trên đảo, xung quanh chỉ một màu xanh thăm thẳm, nhà thơ
đối mặt với mưa going, gió bão, nắng cháy…Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như
vậy đã khiến tâm tư con người thay đổi. Những điều tưởng như nhỏ nhoi, giản dị
đối với bất kì ai thì lại trở thành những ước mơ cháy bỏng đối với người lính đảo.
Điều kiện sống khó khăn, thiếu thốn là vậy, tình cảm đồng đội thiêng liêng và cao
quý đã tác động rất lớn đến hồn thơ Trần Đăng Khoa. Những bài thơ ra đời xoay
quanh cuộc sống hàng ngày trên đảo, tình cảm đồng đội gắn bó keo sơn như anh em
ruột thịt cũng như những cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt…cũng được tác
giả tái hiện lại rất sinh động. Rồi cũng từ cuộc sống đầy thử thách ấy, cũng có
những lúc nhà thơ chạnh lòng khi nhớ về quê hương, nhớ người thân, thậm chí
97
trong bài thơ “Mẹ” nhà thơ đã nghĩ đến cái chết khi đặt ra một giả thiết rằng có thể
mình sẽ hi sinh trong một trận đấu
Mẹ ơi, có thể trong cuộc chiến đấu này
Con sẽ ngã xuống
Ngã xuống bình thường
Như bao đồng đội của con
Để mái nhà gianh mẹ được yên ả
Dưới sắc nắng vàng…
Trở về với cuộc sống đời thường, khi có dịp đến nghĩa trang Văn Điển, nhà thơ
lại đứng trước những băn khoăn, suy nghĩ về ranh giới giữa sự sống và cái chết.
Những người nổi tiếng cũng như những con người vô danh, khi nằm xuống nơi đây
tất thảy đều như nhau, bởi vậy mới có những câu thơ như
Ôi thiên nhiên, cám ơn người nhân hậu
Những so le, người kéo lại cho bằng
Ít nhất cũng là khi nằm xuống
Những mảnh gỗ rừng, dưới một vành trăng…
(Ở nghĩa trang Văn Điển)
Đến với thể thơ tự do này, nhà thơ có thể thoái mái giãi bày những tâm tư, tình
cảm của mình trước cuộc sống. Mặc dù những bài thơ tự do được Trần Đăng Khoa
sáng tác trong giai đoạn sau này chưa đạt đến đỉnh cao như những bài thơ viết trong
thời gian thơ ấu, nhưng không thể phủ nhận sự đóng góp của ông trong một đề tài
thơ mới: Thơ viết về người lính biển. Thông qua tác phẩm cũng như quá trình vận
động trong đời thơ Trần Đăng Khoa, người đọc sẽ có những cảm nhận khác nhau
trong việc đánh giá về thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ. Nhưng dù là
những nhận xét, đánh giá gì thì những đóng góp của Trần Đăng Khoa vào việc làm
phong phú cho ngôn ngữ thơ với những biện pháp nghệ thuật tu từ là không thể chối
cãi.
98