Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 109 trang )
9
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận tâm lý học về hoạt động vui chơi trong nhà
trƣờng của trẻ em lứa tuổi mầm non.
- Chƣơng 2: Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu.
- Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu biểu hiện tâm lý bộc lộ qua HĐVC của trẻ em
lứa tuổi mầm non.
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TÂM LÝ HỌC VỀ HOẠT ĐỘNG VUI
CHƠI CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu tâm lý của trẻ trong HĐVC
1.1.1. Trên thế giới:
Nửa cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trong Tâm lý học có rất nhiều quan
điểm và học thuyết nghiên cứu về trò chơi, tuy nhiên, các quan điểm về vấn đề này
không có sự thống nhất bởi họ có cơ sở nghiên cứu cũng nhƣ cách lí luận khác
nhau. Ngƣời ta thƣờng xếp theo nhóm các học thuyếthay quan niệm giống nhau của
các học thuyết để dễ phân biệt.
1.1.1.1. Các lý thuyết có quan điểm sinh vật hóa trò chơi
Theo một số lý thuyết cổ điển, chơi là hoạt động không có mục đích, tự nhiên
sẵn có của sinh vật nhằm giải tỏa năng lƣợng dƣ thừa hoặc là hoạt động thƣ giãn
nhằm nạp lại năng lƣợng đang thiếu. Họ xem hoạt động chơi không mang mục đích
quan trọng nào và có thể thay thế bằng hoạt động khác.
Đại diện và là cha đẻ của lý thuyết này chính là S.Freud (1856 - 1933): Freud
cho rằng nhiều trò chơi của trẻ là cách chuyển hoá của xung lực tính dục bị ngƣời
lớn kiềm chế. Đối với cha mẹ, anh chị, trẻ có một tình cảm hai chiều trái ngƣợc
nhau, vừa yêu mến, kính phục, vừa ghen ghét, căm giận. Tâm trí trẻ chƣa đủ sức
hóa giải mâu thuẫn giữa hai tình cảm ấy, nên đƣợc “trá hình” vào trong những hoạt
động chơi. Trong những hoạt động chơi đó, trẻ ôm ấp nâng niu đồ chơi, hay trút
giận, đập phá đồ chơi đều là cách giải tỏa những cảm xúc mâu thuẫn nội tại không
thể diễn đạt. Trẻ thu nhận kiến thức bên trong trên cơ sở hoạt động đáp ứng những
kích thích bên ngoài. Ở trẻ, bản năng biểu hiện ra trò chơi, thể hiện mong ƣớc, niềm
đam mê của trẻ và liên quan tới bản năng tình dục, chịu ảnh hƣởng của bản năng
tình dục [32, tr.11]. Hơn nữa, Freud là ngƣời đầu tiên dùng hoạt động chơi nhƣ một
liệu pháp chữa các chứng rối nhiễu tâm lý ở trẻ em. Trong hoạt động chơi đó, đứa
trẻ đƣợc tự do giải phóng nội tâm nhiều uẩn ức, lo hãi, huyễn tƣởng trên các đồ
chơi.
11
Ông chia các giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ dựa theo các biểu tƣợng gây
khoái cảm cho trẻ trong giai đoạn đó. Dù có những hạn chế rõ rệt là đã bản năng
hóa trò chơi cũng nhƣ tuyệt đối hóa bản năng về HĐVC của trẻ giống nhƣ vấn đề
nhân cách, song mặt tích cực, thành quả không chối cãi đƣợc trong lý thuyết của
Freud về trò chơi đó là việc dùng trò chơi nhƣ một liệu pháp tâm lý chữa bệnh cho
trẻ của ông. Đã có rất nhiều ngƣời và nhiều nƣớc trên thế giới sử dụng liệu pháp
này thành công.
E. Erikson (1905 - 1994): Ông chia sự phát triển con ngƣời ra 8 giai đoạn,
trong đó có giai đoạn trẻ từ 3 đến 6 tuổi: là giai đoạn xung đột giữa ý muốn tự ý và
cảm giác có tội. Giai đoạn này, trẻ có khả năng tự hoạt động và nảy sinh nhiều ý
muốn tự ý nhƣng luôn phải tuân thủ những giới hạn và qui tắc của xã hội. Trẻ phải
đạt đƣợc sự cân bằng lành mạnh giữa ý muốn tự ý lựa chọn những điều trong khuôn
phép, chứ không bị ép buộc hoặc từ chối cảm giác có tội khi lựa chọn những điều
không đƣợc phép. Các hoạt động chơi tƣởng tƣợng giúp trẻ giải tỏa xung đột này,
trẻ tƣởng tƣợng những tình huống giả định, trong đó những quy luật trở nên đƣợc
chấp nhận dễ dàng, không gò ép ý chí lựa chọn tự do.
Có thể nói, lý thuyết Phân tâm cho rằng: Chơi là hoạt động gây phấn chấn, cho
phép đứa trẻ làm chủ những tình huống khó khăn. Trẻ sử dụng những tình huống
tƣởng tƣợng để đóng vai ngƣời lớn, lấy cảm giác làm chủ trong hoạt động chơi mà
sao chép trong tình huống thật. Thông qua hoạt động chơi, trẻ có thể tái hiện những
sự kiện đau đớn, những xung đột của cá nhân, làm chủ nỗi đau đó bằng cách giải
toả nó trong tình huống tƣởng tƣợng.
Các tác giả nhƣ Stenlin Kholl, Stanley Hall, G.Spencer, Karl Groos, V.Stern,
Ph.Siller, Reaney, Claparède, Arian Sumo Seipt cũng cho rằng: HĐVC của trẻ em
mang tính bản năng, di truyền và sinh học học đơn thuần. Cụ thể:
A.S.Seipt: Quan điểm của bà đƣợc thể hiện trong tác phẩm "Niềm hạnh phúc
của con bạn". Theo bà: Trò chơi là phƣơng tiện để bình thƣờng hóa các quan hệ của
đứa trẻ đối với thế giới xung quanh, xua tan đi những phiền muộn và khó khăn
trong tâm lý, loại bỏ đọc những yếu tố tiêu cực của nhân cách [29, tr.216].
12
Ph.Siller (1756 - 1800): Ông nói rằng: Trò chơi là cơ sở của tất cả các nghệ
thuật. Điều kiện nảy sinh trò chơi là khi không còn những nhu cầu sơ đẳng nhất cho
sự tồn tại. Trò chơi giúp tiêu hao sức lực dƣ thừa, có nhu cầu tinh thần, nhu cầu
sáng tạo. Có nghĩa là, trò chơi giống nhƣ một sự giải trí, một nhu cầu cao của trẻ,
khi trẻ khỏe mạnh, đƣợc ăn no, uống đủ, có sức lực dƣ thừa là xuất hiện hành động
chơi. Tuy nhiên, một mâu thuẫn thấy rõ rằng: Với những trẻ ốm yếu, không có sức
lực - sự tồn tại chƣa đƣợc đảm bảo, thì việc chơi đùa vẫn diễn ra dù việc thực hiện
nó có khó khăn. Bởi trò chơi của trẻ, không chỉ có trò chơi vận động mạnh để tiêu
hao sức lực dƣ thừa mà có những trò chơi đơn giản, nhẹ nhàng giúp trẻ tăng thêm
sức lực và có khả năng hồi phục sức khỏe của mình. Mặt khác, với trẻ, việc chơi
nhƣ là một hoạt động tất yếu, trẻ chơi để khám phá và tiếp thu kinh nghiệm tri thức
xã hội,biết cách sử dụng đồ vật và ứng xử, giao tiếp... chứ không hẳn là nhu cầu
sáng tạo, nhu cầu tiêu hao năng lƣợng dƣ thừa [29, tr212].
G.Spencer (1820 - 1903), đã phát triển học thuyết của Ph.Sille, cho rằng trò
chơi xuất hiện khi có sức lực dƣ thừa. Và gọi học thuyết của Ph.Sille là “sức dƣ
thừa”. Ở đó những năng lực dƣ thừa của cơ thể con vật non không đƣợc sử dụng
cho hoạt động thực mà đƣợc tiêu khiển qua sự bắt chƣớc các hoạt động thực bằng
trò chơi. Ông cũng khẳng định: Trẻ có bản năng nghịch ngợm, phá phách - bản
năng này đƣợc đáp ứng qua trò chơi [32, tr.10].
S.Kholl: Trong học thuyết di truyền sinh học và trò chơi, Ông nói rằng: Sự
phát triển tâm lý của trẻ là sự thu gọn, lặp lại toàn bộ những thời kỳ phát triển của
loài ngƣời. Nền tảng của học thuyết là quy luật di truyền sinh học: sự phát triển phôi
thai diễn ra nhƣ thế nào thì sự phát triển sau này của trẻ cũng hệt nhƣ thế. Nội dung,
hình thức của trò chơi cũng lặp lại lịch sử phát triển nhân loại [29, tr 214].
S.Hall - Nhà tâm lý ngƣời Anh: Phát triển học thuyết của Stenlin Kholl. Ông
đã quan sát các trò chơi và lịch sử của xã hội để phát hiện ra rằng, những trò chơi
của trẻ con lần lƣợt diễn lại những hành động tƣơng tự của loài ngƣời trong quá
trình tiến hóa. Ong cho rằng: Bản năng chi phối toàn bộ đời sống con ngƣời. Trò
chơi giúp trẻ loại bỏ khỏi nhân cách một loạt những điểm yếu nhƣ tính nhõng nhẽo,
13
ích kỷ, ... với xung quanh, xua tan đi những nỗi bực tức, bƣớng bỉnh. Trong trò chơi
trẻ mô phỏng lại những tình huống khác nhau dẫn tới kết quả điều trị tốt, làm lành
lại những chấn thƣơng, bình thƣờng hóa những mối quan hệ của trẻ với ngƣời lớn.
K.Groos (1861 - 1946): Trong học thuyết cổ điển về trò chơi, ông cho nói:
"Trò chơi của trẻ mang tính chất thuần túy sinh học. Trò chơi là một hình thức hoạt
động sống làm cho các cơ thể non trẻ hoàn thiện các bản năng di truyền, các năng
lực và sức lực. Chơi là phƣơng thức đặc thù của các loại bản năng [29, tr 213].
Nhà tâm lý ngƣời Mỹ, Reaney đã phân tích cụ thể những trò chơi của trẻ
tƣơng đƣơng với những bƣớc tiến hóa của loài ngƣời. Ông gắn trò chơi với 4 thời kì
phát triển của trẻ. Thời kì thú vật (trẻ từ 0 - 7 tuổi), các bé chơi trò chơi vận động,
trèo leo, xích đu; thời kì dã man (trẻ từ 7 - 9 tuổi) chơi đuổi tìm nhau, bắn bia, chơi
gậy; thời kì du mục (từ 9 -12 tuổi), đua nhau khéo léo, sƣu tập đồ vật, bắt đầu dùng
trí tƣởng tƣợng trong các trò chơi; đến thời kỳ bộ lạc (từ 12 - 17 tuổi), biết kết đoàn
mà chơi… Đứng trƣớc một cái gậy, vài mảnh gỗ, một đống đá, cát, một miếng
vải… đứa trẻ 3 tuổi chơi khác đứa trẻ 8 tuổi. Nhƣng cùng một lứa tuổi thì cách dùng
chơi cũng tƣơng tự. Vì vậy, phải đứng về phƣơng diện sinh trƣởng mà xét hiểu trò
chơi của trẻ con. Chơi đùa tiến hóa theo và vận dụng vào quá trình sinh trƣởng, chơi
đùa trong đời con trẻ không phải là một hoạt động vô ích, vô nghĩa.
Theo quan điểm này, ta thấy ông cũng không nằm ngoài cách nhìn nhận và
đánh giá con ngƣời nhƣ sinh vật. Đặc biệt giai đoạn trẻ từ 0 - 7 tuổi ông gọi là thời
kì dƣơng vật - điều này càng khẳng định cái nhìn không đúng của ông về loài
ngƣời. Mặt khác, trò chơi của trẻ ông chỉ gắn với vận động, mà không tính đến trí
tuệ, sự năng động, sáng tạo của trẻ, không tính đến yếu tố cá nhân cũng nhƣ tâm lý xã hội bên trong trẻ, không có sự phân chia rõ ràng cho từng lứa tuổi.
V.Stern (1871 - 1938): Khẳng định: Vui chơi là bình minh của bản năng đúng
đắn. Ông nhấn mạnh ý nghĩa của trò chơi trong việc rèn luyện những cơ chế di
truyền của phẩm hạnh. Trò chơi của con ngƣời không khác của con vật.
Nhà tâm lý Thụy Sĩ, Claparède nói rằng: Có chơi lâu năm trẻ con mới lớn
lên, thành ngƣời lớn đƣợc. Lúc mới sinh, những bản năng chƣa thể hoạt động hoàn
14
thiện, phải luyện tập ít hay nhiều. Loài ngƣời là sinh vật tối cao thì thời thơ ấu càng
phải chơi nhiều cách và lâu năm. Đây cũng là một cách nhìn sai lầm khi cho rằng
chơi chỉ để hoàn thiện bản năng lúc mới đƣợc sinh ra.
Trong quan điểm sinh vật hóa trò chơi, đặc biệt là của Freud dù đã đƣợc dùng
làm một liệu pháp trị liệu tâm lý nhƣng nhƣợc điểm là đã khẳng định trò chơi
(HĐVC) nhƣ là một hiện tƣợng hoàn toàn mang tính bản năng, coi hoạt động chơi
của trẻ không khác hoạt động của con vật. Họ không hề đề cập đến yếu tố xã hội và
mặt cá thể (tâm lý) của trẻ. Chính vì thế, họ chƣa có thể giải thích đƣợc mối liên hệ
của trẻ, HĐVC với xã hội loài ngƣời và với sự phát triển tâm lý - nhân cách của trẻ.
Ngoài ra, một điểm thiếu sót nữa của các quan niệm sinh vật hóa trò chơi chính là:
nội dung thuần túy sinh học mà không gắn với lịch sử phát triển của xã hội loài
ngƣời và cá thể. Bởi vậy, đây cũng là lí do họ không tìm ra đƣợc nguồn gốc thật sự
của trò chơi, và nội dung và ý nghĩa trò chơi phản ánh.
Nhƣ vậy, trong quan điểm sinh vật hóa trò chơi, các nhà tâm lý học đã chỉ ra
đƣợc những đặc điểm tâm lý của trẻ em cũng có các mặt nhận thức, cảm xúc, hành
vi. Các yếu tố tâm lý này chịu sự ảnh hƣớng và quyết định bởi đặc điểm bẩm sinh,
di truyền. Còn các yếu tố môi trƣờng chỉ là yếu tố điều chỉnh mà thôi.
1.1.1.2. Lý thuyết Phát triển nhận thức của J.Piaget về trò chơi.
J.Piaget (1896 - 1980) cho rằng trẻ em là những ngƣời học đầy năng động và
tự động. Bản thân trẻ em có tính tò mò tự nhiên đối với thế giới xung quanh chúng.
Chúng luôn năng nổ tìm kiếm thông tin để có thể lý giải và hiểu về thế giới đó.
Chúng thƣờng trải nghiệm những vật thể mà chúng tình cờ gặp phải, khám phá và
quan sát những hệ quả từ những hành vi của chúng. Khi trẻ chơi, đó chính là lúc trẻ
khám phá thế giới qua những tính chất và cấu trúc của đồ vật và qua những hành vi
tác động lên đồ vật đó.
Quá trình học tập của trẻ có tính cơ cấu và tính cá thể. Đứa trẻ năng động tìm
tòi thông tin và kết nối các thông tin theo cách riêng của chúng để lý giải về môi
trƣờng sống xung quanh. Piaget dùng thuật ngữ “sơ cấu” để giải thích tính cơ cấu
trong quá trình học tập của trẻ. Sơ cấu là một cách nói trừu tƣợng về một dạng cấu
15
trúc nhận thức đơn giản trẻ có đƣợc nhờ những hành vi phản xạ tự phát ban đầu.
Khi các kích thích quen thuộc xuất hiện thƣờng xuyên, các phản xạ tự phát dần dần
có chọn lọc, sơ cấu càng đƣợc củng cố và trở thành kiểu hành vi có thể lặp đi lặp lại
khi trẻ nhận biết kích thích quen thuộc tác động. Piaget cho rằng trẻ luôn sử dụng
lập đi lập lại các sơ cấu mới đạt đƣợc trong các tình huống tƣơng tự và mới mẻ. Quá
trình lập lại các sơ cấu đó giúp đứa trẻ chọn lọc các hành vi và kết hợp chúng lại.
Các sơ cấu đƣợc tổ chức và kết nối với nhau dựa trên quá trình tƣ duy thao tác logic
này trở thành các “thao tác”.
Lý thuyết này đƣợc chứng thực khi ta quan sát trẻ chơi. Khi chơi, trẻ thao tác
lập đi lập lại nhiều lần trên một vật và thử chơi bằng nhiều cách khác nhau với đồ
chơi đó, cho tới khi chọn đƣợc cách chơi tƣơng ứng với chức năng của đồ vật đó, và
kết hợp chơi giữa đồ vật đó với đồ vật khác. Trẻ đập, quăng chiếc xe nhiều lần
trƣớc khi biết đẩy xe chạy và cho hình ngƣời lên xe.
Theo Piaget, những sơ cấu càng phát triển cho phép đứa trẻ càng thích nghi
hơn với môi trƣờng sống. Sự phát triển của các sơ cấu dựa trên hai cơ chế: đồng hoá
và điều ứng. Quá trình đồng hoá giúp mở rộng các sơ cấu với những đối tƣợng mới
có tính chất tƣơng đồng với những đối tƣợng đã biết, quá trình điều tiết giúp mở
rộng các sơ cấu với những đối tƣợng mới có tính chất mới chƣa hề biết. Ví dụ, trẻ
biết kẹo là vật nhỏ, có màu, bỏ vào miệng ăn thì ngọt; trẻ thấy nút áo cũng là vật
nhỏ, có màu, nên bỏ vào miệng ăn; đây là quá trình đồng hoá. Trẻ ngậm nút áo
không thấy ngọt, và ngƣời lớn bắt nhè ra, dần dần, trẻ biết thêm có vật mới là nút
áo, nhỏ, có màu, không ngọt, không phải kẹo và không đƣợc ăn; đây là quá trình
điều ứng. Cả hai quá trình này liên kết với nhau chặt chẽ trong suốt quá trình phát
triển hiểu biết và kiến thức về thế giới xung quanh của đứa trẻ [32, tr. 11].
Piaget cho rằng sự phát triển nhận thức của trẻ tuỳ thuộc vào sự phát triển
thành thục của hệ thần kinh qua các độ tuổi khác nhau. Đối với trẻ từ 0 - 6 tuổi,
Piaget chia làm hai giai đoạn phát triển nhận thức: Giai đoạn giác động (từ 0 - 2
tuổi) và Giai đoạn tiền thao tác (từ 2 - 6 tuổi).
16
Ở giai đoạn 2 (2 đến 6, 7 tuổi) trẻ chơi trò chơi biểu tƣợng, thể hiện chức năng
biểu tƣợng, mô phỏng và thể hiện ngôn ngữ. Trò chơi là sự đồng hóa thực sự với
hoạt động riêng, cung cấp cho hoạt động riêng đủ nhiên liệu cần thiết và biến đổi
thực tại, đáp ứng nhu cầu của cái tôi. TC của trẻ là những dạng bắt chƣớc dựa trên
biểu tƣợng (10, tr. 411]. Trò chơi là một hoạt động trí tuệ, là một nhân tố quan trọng
đới với sự phát triển tri tuệ của trẻ, tạo ra sự thích nghi của trẻ với môi trƣờng.
Thích nghi gồm 2 quá trình đồng hóa và điều hóa bổ sung cho nhau. Và ở giai đoạn
tiền thao tác này, khả năng tƣ duy biểu tƣợng phát triển mạnh mẽ giúp trẻ có thể tƣ
duy và nói về những trải nghiệm thân cận. Khả năng ngôn ngữ phát triển nhanh
chóng cả về từ vựng và cấu trúc câu. Trẻ có thể nghe và hiểu truyện kể có hình ảnh
minh hoạ, trẻ thích chơi biểu tƣợng nhƣ vẽ tranh, nặn tƣợng, … Trẻ thƣờng chơi giả
vờ, gán cho đồ vật những chức năng, vai trò nhất định trong bối cảnh giả định. Trẻ
chơi nấu ăn trên chiếc lá, múc cơm cho búp bê ăn, … Tuy nhiên, ở giai đoạn này, tƣ
duy của trẻ không theo logic hợp lý thông thƣờng của ngƣời lớn. Trẻ đƣa ra các câu
trả lời theo cảm tính, chứ không suy luận hợp lý. Trẻ có thể cho ly cao nhỏ thì chứa
nhiều nƣớc hơn ly thấp to chỉ vì thấy mực nƣớc ly kia cao hơn trong khi lƣợng nƣớc
là bằng nhau. Đến cuối giai đoạn này, trẻ mới dần phát triển tƣ duy trên các nguyên
tắc logic đƣợc thấy trực tiếp, bắt đầu cho sự phát triển của giai đoạn thao tác cụ thể
từ 6 đến 12 tuổi.
Có thể thấy, lý thuyết về sự phát triển trí tuệ trẻ em của Piaget có tác động sâu
sắc đến các nhà ứng dụng tâm lý và nhà giáo dục trẻ em. Lý thuyết này ủng hộ việc
cung cấp những cơ hội cho trẻ trải nghiệm về vật thể cũng nhƣ các hiện tƣợng tự
nhiên trong cuộc sống. Mà trong đó, hoạt động chơi là hoạt động thiết yếu và an
toàn nhất, cho trẻ nhiều cơ hội vui thú để trải nghiệm và khám phá không ngừng,
thúc đẩy liên tục sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Tóm lại, bằng việc nghiên cứu, quan sát trẻ em thì Piaget đã chỉ ra thông qua
trò chơi đã giúp trẻ chuyển hóa từ trí tuệ cảm giác vận động sang trí tuệ thao tác.
Ông chỉ ra tƣ duy đã nảy sinh và hình thành nhƣ thế nào trong lòng của hoạt động
cảm giác vận động. Song song đó, Piaget cũng chỉ ra đƣợc mối quan hệ giữa tri giác
17
với trí tuệ, mối quan hệ giữa tình cảm với trí tuệ. Đây cũng chính là một trong
những cơ sở để chúng tôi áp dụng nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài này.
1.1.1.3. Tâm lý học hoạt động
Nhiều nhà TLH trên thế giới, đặc biệt là các nhà TLH Macxit đã tiến hành
nhiều nghiên cứu và thấy đƣợc bản chất thực sự của trò chơi - đó chính là bản chất
xã hội. Họ khẳng định trò chơi mang bản chất xã hội cả về nguồn gốc, nội dung,
hình thức biểu hiện và khuynh hƣớng của nó.
- L.X.Vƣgotxki - Nhà TLH nổi tiếng của Nga và là một trong những ngƣời
sáng lập trƣờng phái TLH Hoạt động cho rằng: Nguồn gốc của các thao tác, hành
vi, hành động chính là sự xuất hiện ngôn ngữ ở trẻ em. Hoạt động trí tuệ đƣợc triển
khai từ hành động đƣợc thự hiện bằng ngôn ngữ sang hành động thực tiễn. Yếu tố
quy định sự phát triển cấu trúc tâm lý lứa tuổi - tuyến phát triển trung tâm chính là
quan hệ đặc thù độc đáo giữa trẻ em và hiện thực bao quanh nó, trước hết là quan
hệ xã hội. Bởi thế khi nghiên cứu về trẻ em phải làm sáng tỏ tình huống xã hội của
sự phát triển đó. Hoạt động chơi không xuất hiện ngẫu nhiên mà là sản phẩm sáng
tạo của cá nhân thuần túy dưới ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xung quanh.
Thông qua chơi trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm lịch sử - xã hội và chơi chỉ trở thành
phương tiện giáo dục khi được hướng dẫn một cách đúng đắn [19, tr.101].
Hoạt động của trẻ em về tổ chức, cấu trúc và phƣơng thức hành động hoàn
toàn khác với hành vi của động vật và không có sẵn. Ông cho rằng, ngay từ những
ngày đầu trong quá trình phát triển tâm lý trẻ em, sự thích ứng của nó với môi
trƣờng đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện xã hội thông qua những ngƣời xung
quanh. Con đƣờng từ đồ vật đến trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều thông qua ngƣời
khác. Động cơ của hoạt động vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động chứ
không nằm ở kết quả. Qua hoạt động chơi trẻ lĩnh hội đƣợc những kinh nghiệm lịch
sử - xã hội loài ngƣời.
Thông qua "Lý thuyết Văn hoá xã hội ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
yếu tố xã hội và văn hoá tác động lên sự phát triển nhận thức của trẻ em. Hai yếu tố
này tác động thông qua sự tƣơng tác của trẻ với đồ vật và với ngƣời lớn. Nói cách
18
khác, chính đồ vật và ngƣời lớn mà trẻ tƣơng tác luôn mang dấu ấn của nền văn hoá
và bản chất xã hội trên mình. Thông qua những tƣơng tác chính thức hay không
chính thức, ngƣời lớn truyền đạt thông tin cho trẻ theo nhiều cách mà văn hoá của
họ đã lý giải về thế giới. Khi trẻ chơi, trẻ học cách sử dụng đồ vật theo chức năng
mà cả xã hội và nền văn hóa xung quanh nó qui định.
Nghiên cứu của Vƣgotsky về hoạt chơi hay trò chơi nhƣ là một hiện tƣợng
tâm lý có vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ. Thông qua hoạt động chơi,
trẻ phát triển ý nghĩa trừu tƣợng về vật, phân biệt vật này với vật khác, trong sự
phát triển của chức năng thần kinh cao hơn. Chơi như là sự diễn giải trong sự tưởng
tượng những ham muốn không thực hiện được ngoài cuộc sống. Đứa trẻ chơi nấu ăn
với búp bê vì lòng ham muốn làm giống mẹ nó đã chăm sóc nó. Trẻ có thể dùng cái
gối làm em bé, cái nắp làm cái tô, cây que là cái muỗng - những đồ vật đó có tính
tƣợng trƣng cho em bé thật và đồ nấu ăn thật mà bé chƣa thể sử dụng thành thục
đƣợc. Qua những hoạt động chơi này, trẻ học đƣợc ý nghĩa của từng đồ vật có tính
tƣợng trƣng đó và chuyển hoá sang đồ vật thật. Trẻ càng lớn càng hiểu tính tƣợng
trƣng của đồ vật và càng hiểu tính giả bộ của hoạt động chơi, trẻ có thể nói: “lấy cây
gậy này làm con ngựa để chơi”. Vƣgotsky nhấn mạnh hoạt động chơi giúp trẻ phát
triển các kỹ năng xã hội. Khi trẻ chơi với búp bê và căn nhà đồ chơi, trẻ đang học
về vai trò khác nhau của các thành viên trong gia đình. Khi hai chị em chơi với
nhau, vai trò chị và em đƣợc lộ rõ hơn là những hành vi trong cuộc sống thƣờng
ngày. Những tƣơng tác với ngƣời khác khi chơi, giúp trẻ học đƣợc các quy luật xã
hội, dần dần giúp trẻ tự điều chỉnh bản thân. Ví nhƣ một đứa trẻ đứng ngay vạch
xuất phát chạy đua với những đứa trẻ khác, đứa trẻ nào cũng muốn phóng chạy
ngay, nhƣng quy định xã hội giúp trẻ phải chờ đợi có dấu hiệu xuất phát mới đƣợc
chạy.
Những giai đoạn phát triển của trẻ đƣợc Vƣgotsky phân chia theo kỹ năng tƣ
duy và lý luận. Trong đó, khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ từ sớm phụ thuộc
vào sự tƣơng tác với ngƣời lớn trong tất cả các hoạt động, đặc biệt là hoạt động
chơi.
19
Các nhà tâm lý phát triển lý thuyết của Vƣgotsky cho rằng hoạt động chơi của
trẻ chuẩn bị cho chúng cuộc sống trƣởng thành bằng việc luyện tập các hành vi
giống nhƣ ngƣời lớn.
- Đ.B. Enconhin vạch rõ: "Lịch sử phát triển của trò chơi gắn liền với lịch sử
phát triển xã hội loài ngƣời và sự thay đổi vị trí của trẻ trong hệ thống các mối quan
hệ xã hội" (12, tr.64]. Ông cũng đồng tình với G.V. Plêkhanov rằng: trong lịch sử
phát triển xã hội, lao động có trƣớc và trò chơi chính là một hiện tƣợng xã hội, là
phƣơng tiện để trẻ em làm quen với lao động của ngƣời lớn. Trò chơi xuất hiện khi
công cụ lao động đã trở nên phức tạp, trong xã hội có sự phân công công việc theo
độ tuổi, trẻ không đƣợc tham gia vào các mối quan hệ với ngƣời lớn, trò chơi đóng
vai xuất hiện làm trẻ đƣợc thỏa mãn nguyện vọng của mình là đƣợc vƣơn tới xã hội
của ngƣời lớn, đƣợc hành động và đối xử nhƣ ngƣời lớn thực sự.
- Vallon, Khrixtencer: Trò chơi của trẻ là sự phản ánh cuộc sống, là hoạt động
bị quy định bởi những điều kiện xã hội. Trò chơi không bất biến, phản ánh hiện
thực luôn vận động và phát triển.
- N.A.Crupxkaia: Chơi giúp trẻ thỏa mãn 2 nhu cầu, đó là: Trẻ mong muốn
đƣợc hiểu biết về cuộc sống xung quanh, hơn nữa trẻ thích bắt chƣớc ngƣời lớn và
mong muốn đƣợc hoạt động tích cực với bạn bè cùng tuổi" [12, tr.65].
- G.V.Plêkhanov: Ông cho rằng Trò chơi là cầu nối các thế hệ với nhau, truyền
tải thành tựu văn hóa từ đời này đến đời khác. Trò chơi phản ánh hoạt động lao
động của ngƣời lớn. Trong TC, trẻ bắt chƣớc kỹ năng lao động và lĩnh hội cả những
thói quen của ngƣời lớn trong xã hội. Nhu cầu và sự ham hiểu biết thế giới xung
quanh chính là động lực giúp trẻ tích cực hoạt động trong trò chơi. Trẻ có nhu cầu
chơi vì chúng có mong muốn hiểu biết về thế giới xung quanh. Ông cũng nhƣ nhiều
nhà TLH Macxit khác khẳng định: trò chơi có nguồn gốc từ lao động và xuất hiện
sau lao động.
- A.L. Lêonchiev, L.X. Rubinstein: Phát triển đầy đủ hơn tƣ tƣởng của. G.V.
Plêkhanov. Khi ông và cộng sự bàn về sự phát triển tâm lý trẻ em, đóng góp nổi bật
của ông chính là về vai trò của hoạt động và hoạt động chủ đạo trong tâm lý trẻ em.