1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc nhìn cốt truyện.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 109 trang )


Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



đáo là những yếu tố quyết định để nhà làm phim chuyển thể một tác phẩm văn

học lên màn ảnh. Không phải ngẫu nhiên mà những bộ phim được bình chọn

là phim chuyển thể hay nhất mọi thời đại: Cuốn theo chiều gió, Bác sĩ

Zhivago, Bố già, Forrest Gump, Bệnh nhân người Anh, Bay trên tổ chim cúc

ku, Oliver Twist, Rebecca, Hồ sơ điệp viên Bourne, Núi Brokeback,… đều là

những bộ phim có cốt truyện rất hấp dẫn, sâu sắc và tinh tế. Điện ảnh học hỏi

từ văn học “lối phát triển hành động theo thời gian mà chỉ văn học mới có” và

phim truyện chuyển thể cũng lấy chất liệu từ tác phẩm văn học gốc trước hết

là về nội dung cốt truyện. Bởi vậy, mặc dù kho tàng văn học là nguồn cội vô

cùng phong phú và hấp dẫn cho các nhà làm phim khai phá nhưng không phải

tác phẩm văn học nào cũng có thể chuyển thể thành phim. Những truyện

không có cốt truyện - truyện ngắn tâm lý, những tiểu thuyết dòng ý thức,

những tác phẩm văn học phi lý, tác phẩm văn học thuộc chủ nghĩa hiện thực

huyền ảo, tác phẩm văn học hậu hiện đại… dù có thành công về văn chương

đến đâu cũng khó có thể trở thành lựa chọn của các nhà làm phim. Bởi, một

khi tác phẩm văn học có cốt truyện mơ hồ, khó hiểu, phi logic; cốt truyện quá

mờ nhạt, đơn giản đến mức dường như không có cốt truyện (theo nghĩa chặt

chẽ của khái niệm này) hay cốt truyện chỉ xoay quanh những diễn biến tâm lý

của nhân vật… thì dẫu tác phẩm có hay đến đâu, các nhà làm cũng chỉ dám

“kính nhi viễn chi” mà thôi. Truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam

khắc hoạ diễn biến tâm lý vô cùng tinh tế của hai chị em Liên trước cảnh sống

phố huyện lúc chiều tà với ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhưng những trạng huống

tâm lý ấy sẽ khó có thể chuyển tải sang thứ ngôn ngữ của nghệ thuật thứ 7.

Các tác phẩm: Biến dạng (Franz Kafka), Trăm năm cô đơn (Gacia Marquez),

Ulysses (Jame Joyce), Đi tìm thời gian đã mất (Marcel Proust),... dù được

đánh giá là những kiệt tác vĩ đại nhất của văn học nhân loại nhưng chắc chắn

sẽ không bao giờ được chuyển thể thành phim truyện điện ảnh. Có thể nói, cốt



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



32



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



truyện hay, sáng sủa và giàu sức truyền cảm là thứ chất liệu đầu tiên mà điện

ảnh muốn “vay mượn” từ tác phẩm văn học.

Tuy nhiên, cốt truyện phim và cốt truyện trong tác phẩm văn học có

những đặc trưng và yêu cầu khác nhau. Bởi vậy, nhà làm phim không thể “sao

chép” nguyên vẹn nội dung cốt truyện từ tác phẩm văn học lên màn ảnh mà

phải có những cải biên cho phù hợp với ngôn ngữ và phương pháp biểu hiện

của nghệ thuật điện ảnh. Những cải biên quan trọng nhất về cốt truyện trong

quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh là cải biên, bổ

sung về đường dây cốt truyện chính, về chi tiết nghệ thuật, về cách mở đầu kết thúc tác phẩm.

3.1. Tiếp thu, bổ sung và cải biên về đường dây cốt truyện chính

Như chúng tôi đã phân tích ở phần trên, cốt truyện là thứ “chất liệu”

đầu tiên mà nhà làm phim chuyển thể muốn “vay mượn” từ tác phẩm văn học.

Tác phẩm văn học được lựa chọn để chuyển thể phần lớn có cốt truyện hay,

hấp dẫn, giàu sức rung cảm hoặc chí ít cũng phải có tính chất “chuyện”. Tuy

nhiên, do cốt truyện phim và cốt truyện văn học có đặc trưng và yêu cầu khác

nhau nên công việc của nhà làm phim chuyển thể không đơn giản chỉ là

“dịch” nội dung tác phẩm từ ngôn ngữ viết của văn học sang ngôn ngữ hình

ảnh của phim truyện điện ảnh. Ngay khi xây dựng “bộ khung” (cốt truyện)

cho tác phẩm, nhà làm phim đã phải có những cải biên cho phù hợp với

phương thức tự sự và đặc điểm về cách thức tiếp nhận của nghệ thuật điện ảnh.

Những cách thức mà nhà làm phim chuyển thể thực hiện rất đa dạng mà

trước tiên và quan trọng nhất là lựa chọn và xây dựng đường dây chính của

cốt truyện. Thông thường, đường dây chính của cốt truyện văn học – những

mối quan hệ của nhân vật chính, những xung đột, biến cố lớn thúc đẩy nhân

vật chính hành động, bộc lộ tính cách và thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm –

sẽ được nhà làm phim tiếp thu và đưa vào cốt truyện phim.



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



33



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



Tuy nhiên, không phải đường dây chính của tác phẩm văn học nào cũng

sáng rõ, tập trung, nổi bật… và đủ “sức nặng” như yêu cầu của cốt truyện

phim. Đặc biệt, trong các thể loại văn xuôi tự sự, cốt truyện truyện ngắn và cốt

truyện tiểu thuyết có những đặc trưng và yêu cầu rất khác nhau. Truyện ngắn

có dung lượng nhỏ và hình thức ngắn gọn nên cốt truyện truyện ngắn hiếm khi

có đầy đủ các thành phần: mở đầu – thắt nút – phát triển – cao trào – mở nút.

Đa số truyện ngắn chỉ trình bày một “cung đoạn” ngắn trong cuộc đời nhân

vật, thậm chí chỉ nêu lên một tình huống – nơi nhân vật buộc phải hành động,

bộc lộ tính cách và thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm. Ngược lại, tiểu thuyết

là thể loại văn xuôi tự sự cỡ lớn, không bị giới hạn về dung lượng tác phẩm

nên thường có cốt truyện phức tạp với nhiều tuyến nhân vật. Trong cốt truyện

tiểu thuyết thường có đường dây chính và các đường dây phụ đan xen, bện

xoắn vào nhau, thậm chí có những bộ tiểu thuyết lớn có nhiều đường dây

chính cùng song song phát triển. Tùy vào độ “dày” – “mỏng” của cốt truyện

văn học mà người viết kịch bản chuyển thể phải quyết định lược bỏ bớt hay

bổ sung vào cốt truyện văn học gốc. Thông thường, đối với chuyển thể tiểu

thuyết thành phim, nhà biên kịch phải lược bỏ bớt một số chi tiết, sự kiện, một

số đường dây phụ không thực sự gắn bó chặt chẽ và có ý nghĩa quyết định đối

với sự phát triển của đường dây chính trong truyện phim để cốt truyện phim

được tập trung, sáng rõ, khán giả không bị phân tán – không bị buộc phải theo

dõi quá nhiều sự kiện, biến cố trong một khoảng thời gian có hạn. Với những

bộ tiểu thuyết đồ sộ (đại tiểu thuyết), có quá nhiều tuyến truyện, nhiều nhân

vật, sự kiện, biến cố… như: Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Iliat và Ôđixê…,

nhà làm phim chỉ có thể chọn lọc một trường đoạn nhất định hoặc một tuyến

truyện để chuyển thể thành phim truyện điện ảnh. Ngược lại, khi chuyển thể

truyện ngắn thành phim, nhà biên kịch thường phải bổ sung thêm các sự kiện,

xung đột, biến cố… hoặc thậm chí là bổ sung thêm các đường dây phụ xung



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



34



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



quanh đường dây chính để cốt truyện phim được “đầy đặn”, thu hút sự chú ý

của khán giả vào mạch diễn biến của bộ phim. Chúng ta có thể thấy rõ những

cách thức khác nhau mà nhà làm phim chuyển thể thực hiện đối với cốt truyện

văn học gốc qua trường hợp phim Thời xa vắng và Mùa len trâu.

Tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu là tác phẩm ôm chứa một

dung lượng hiện thực khá lớn. Nó phản ánh cả một chặng đường lịch sử dài

hơn 30 năm của dân tộc: từ kháng chiến chống Pháp đến khi đất nước hoàn

toàn thống nhất, hòa bình được lặp lại. Lịch sử đất nước, dân tộc được phản

ánh thông qua số phận nhân vật chính – Giang Minh Sài – và nội dung cuốn

tiểu thuyết bám theo khá sát số phận nhân vật: từ khi Sài mới 13 - 14 tuổi, bị

gia đình bắt lấy vợ sớm theo phong tục lạc hậu của nông thôn miền Bắc xưa

đến khi Sài trưởng thành, yêu Hương – cô bạn gái xinh đẹp, thông minh, học

cùng lớp – nhưng không vượt qua nổi những “áp lực vô hình” từ quan niệm cổ

hủ, ấu trĩ của gia đình, dòng họ, xóm làng…, của cả xã hội trong một giai

đoạn lịch sử đặc biệt; Sài phải “trốn chạy” bằng cách nhập ngũ, dấn thân ra

mặt trận để rồi khi chiến tranh kết thúc, bước ra khỏi cuộc chiến với rất nhiều

vinh quang hào nhoáng, Sài được “giải phóng”, được ly dị vợ thì anh lại bước

vào một bi kịch mới của “anh nhà quê lấy vợ thành thị” với không ít những

chua chát, cay đắng do sự khác biệt về lối sống, suy nghĩ… Tác phẩm không

chỉ phản ánh những xung đột, biến cố trong suốt cuộc đời nhân vật chính

Giang Minh Sài mà còn có nhiều tuyến truyện phụ về các nhân vật khác xung

quanh nhân vật chính: Hương, Châu, Chính uỷ Đỗ Mạnh… Khi chuyển thể

tiểu thuyết Thời xa vắng thành phim, đạo diễn Hồ Quang Minh và nhà văn Lê

Lựu đã cắt bỏ hoàn toàn phần 2 của cuốn tiểu thuyết - phần kể về quãng đời

của Sài sau khi chiến tranh kết thúc; Sài ly dị Tuyết, lấy Châu - một thiếu nữ

Hà Nội xinh đẹp, sắc sảo và lại một lần nữa thất bại bởi mắc phải sai lầm “yêu

cái mình không có”. Việc cắt bỏ phần 2 của cuốn tiểu thuyết không phải bởi



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



35



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



nó kém hấp dẫn mà trái lại, bi kịch “yêu cái mình không có” của anh chàng

Giang Minh Sài cũng là một “câu chuyện” rất chân thực, sống động, để lại

nhiều suy ngẫm trong lòng độc giả… Tuy nhiên, dung lượng 90 phút đến 120

phút của một phim truyện nhựa không cho phép nhà làm phim ôm đồm quá

nhiều sự kiện, xung đột, biến cố, mâu thuẫn… trong “câu chuyện” của mình.

Ngay đối với phần 1 của cuốn tiểu thuyết, nhà làm phim cũng chỉ giữ lại

đường dây cốt truyện chính về bi kịch phải “yêu cái người khác yêu” của nhân

vật chính Giang Minh Sài trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của đất nước và

lược bỏ bớt các đường dây phụ của cốt truyện tiểu thuyết như: chuyện về cuộc

sống gia đình riêng của Hương, chuyện về chính uỷ Đỗ Mạnh…; lược bỏ bớt

một số chi tiết, sự kiện không thực sự gắn bó chặt chẽ với đường dây chính

của cốt truyện: kỷ niệm về lần Sài vào rừng lấy rau với Thêm và cái chết đầy

ám ảnh của Thêm; cuộc sống lặng lẽ, nhẫn nhịn chịu đựng của Sài khi ở quân

ngũ, những thành tích trong tăng gia sản xuất và chiến đấu của Sài… Người

viết kịch bản chuyển thể phim Thời xa vắng chính là tác giả tiểu thuyết Thời

xa vắng – nhà văn Lê Lựu. Có thể nói, ông đã vượt lên trên những tình cảm

chủ quan của nhà văn đối với đứa con tinh thần của mình để thực hiện việc

chuyển thể cuốn tiểu thuyết lên màn ảnh từ quan điểm của một nhà biên kịch

thực thụ. Nhờ vậy, bộ phim Thời xa vắng có được cốt truyện thật sự tập trung,

dồn nén, giàu sức rung cảm… Đó là yếu tố không thể thiếu góp phần vào

thành công của bộ phim.

Khác với trường hợp phim Thời xa vắng, bộ phim Mùa len trâu được

chuyển thể từ hai truyện ngắn: Một cuộc biển dâu và Mùa len trâu của nhà

văn Sơn Nam. Hai truyện ngắn trên đều rất ngắn gọn và có nội dung khá đơn

giản. Truyện ngắn Một cuộc biển dâu kể về cảnh ngộ thương tâm của hai cha

con Kìm: Lão Bích ốm và chết giữa lúc hai cha con đang lênh đênh trên cánh

đồng ruộng xạ mùa nước nổi, bốn bề là nước, không thấy đâu là bờ bến; đi



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



36



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



mãi thằng Kìm mới gặp được ông bà Hai Tích xin giúp đỡ chôn xác cha nó;

ông bà Hai chôn xác cha Kìm bằng cách dằn đá neo cái xác dưới đáy ruộng

chờ mùa nước giựt… Truyện Mùa len trâu kể về phong tục đưa trâu đi len (đi

đến vùng đất cao để tìm cỏ cho trâu ăn) vào mùa nước nổi của người dân Nam

Bộ và thằng Nhi – con vợ chồng chú Tư Đinh, sau một mùa len trâu đã nhiễm

nhiều thói hư, tật xấu nhưng đã khôn lớn, trưởng thành hơn.

Những “câu chuyện” trong Mùa len trâu và Một cuộc biển dâu đều rất

xúc động, ấn tượng và đã trở thành những nội dung quan trọng của truyện

phim Mùa len trâu: chuyện về sự trưởng thành của một thiếu niên qua một

mùa vật lộn với sông nước và chuyện về phong tục thuỷ táng, thiên táng (mai

táng người chết trên cây, dưới nước) của người dân Nam Bộ vào mùa nước lũ

về… Tuy nhiên, nếu chỉ có chừng ấy thôi thì chưa đủ để làm nên một truyện

phim thực sự, chưa đủ để lôi kéo khán giả của nghệ thuật thứ 7 ngồi lại trước

màn ảnh suốt hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, để hoà mình vào thế giới truyện

phim. Đạo diễn – nhà biên kịch Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã bổ sung khá

nhiều tình tiết, sự kiện, hình ảnh… để làm nên một câu chuyện đầy đặn, trọn

vẹn về kinh nghiệm sống và ý nghĩa của cái chết, về mối quan hệ giữa con

người với môi trường thiên nhiên… Nhìn lại phân đoạn của cốt truyện phim

Mùa len trâu, ta sẽ thấy rõ điều đó.

Mùa len trâu: Phân đoạn cốt truyện4

1. Hình ảnh một ngôi nhà nhỏ trơ trọi giữa biển nước bao la của cánh

đồng mùa nước nổi. Lam (cháu nội Kìm) tròn xoe mắt khi bắt gặp dưới đường

cày mấy mẩu xương lặc lìa cột chặt vào một chiếc cối đá.

C. Tên phim, danh sách diễn viên, đạo diễn,… ở đầu phim.

2. a. Kìm dắt trâu đi chăn

4



Theo cách phân chia đoạn các bộ phim thường dùng, chúng tôi ký hiệu danh sách các diễn viên, đạo diễn,

người quay phim ở đầu phim bằng chữ “C” và cuối phim bằng chữ “E”, tất cả các đoạn thì đánh số thứ tự.

Các chữ số tương ứng với các phần chính, mỗi phần chính bao gồm nhiều cảnh và mỗi cảnh lại được đánh

dấu bằng chữ cái thường.



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



37



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



b. Những người dân phải khênh xác trâu chết vì mùa nước nổi,

không có cỏ cho trâu ăn.

c. Những tay len trâu qua nhà gạ cha Kìm để hai con trâu của gia

đình cho họ đưa đi len.

d. Cha mẹ Kìm bàn bạc về việc cho hai con trâu của nhà đi theo đoàn

len trâu.

3. a. Kìm về, không tìm được cỏ cho trâu ăn

b. Cha Kìm quyết định cho Kìm đưa 2 con trâu của nhà qua núi Ba

Thê theo đoàn len trâu.

c. Hai cha con thắp hương cầu trước bàn thờ gia tiên.

d. Buổi tối, Kìm nằm nghe cha mẹ nói chuyện, nghe cha Kìm kể về

những vui thú, lãng mạn của đời chăn trâu.

4.a. Sáng sớm, Kìm dắt trâu đi tìm đoàn len trâu

b. Kìm và hai con trâu đi mãi, đi mãi giữa đồng nước bao la, không

thấy đâu là bờ bến.

c. Đêm đến, Kìm cho trâu nghỉ trên một cù lao nhỏ giữa đồng nước.

5.a. Kìm cho trâu nhập vào đoàn len trâu.

b. Hình ảnh đàn trâu hàng trăm con lội giữa dòng nước, đen đầu đặc nước.

c. Đêm đầu tiên, Kìm chứng kiến cảnh ông Lập - đầu đảng len trâu

cưỡng bức một cô gái trẻ.

6. Một con trâu trong đàn chết, những người len trâu làm thịt, lột da,

làm lễ cúng tế, uống rượu thề.

7.Những người len trâu đút lót tiền cho lính Tây.

8.a. Buổi tối, những tay len trâu uống rượu, hát hò bên bếp lửa.

b. Kìm học uống rượu, đánh bạc, hút thuốc từ những người len trâu.

c. Đánh nhau đẫm máu giữa các nhóm len trâu.



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



38



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



9.a. Mùa cạn, Kìm trở về nhà cùng một con trâu và một bộ da của con

trâu đã bị chết.

b. Đêm xuống, hai cha con Kìm ngồi uống rượu trò chuyện.

10. Con trâu còn lại của gia đình Kìm bị người ta đến bắt nợ, cha mẹ

Kìm phải lên xứ U Minh kiếm sống.

11.a. Mùa nước nổi lại đến, Kìm cùng Đẹt - một tay len trâu người

Khmer nhận trâu của các gia đình đi len.

b. Trang (vợ Đẹt) và Thiều (con trai Đẹt) đến ở cùng Đẹt và Kìm

c. Kìm gặp lại Quang - một người bạn trong nhóm len trâu trước kia,

nghe Quang kể về cảnh ngộ ốm đau, đơn độc của cha Kìm.

12.a. Kìm lên xứ U Minh tìm cha, hai cha con lênh đênh trên con

thuyền nhỏ giữa đồng nước.

b. Trước lúc chết, cha Kìm kể cho Kìm nghe sự thật về mẹ đẻ của Kìm.

c. Một người đàn bà (bà Hai) thấy Kìm đơn độc giữa đồng nước với

xác người cha vừa mất, dẫn Kìm về nhà.

13. a. Vợ chồng ông bà Hai tranh cãi về việc đem chiếc cối đá – tài sản

duy nhất của gia đình cho Kìm chôn xác cha.

b. Vợ chồng ông bà Hai giúp Kìm chôn xác cha bằng cách bó chiếu,

buộc vào cối đá, neo dưới ruộng.

14.a. Kìm trở lại với đoàn len trâu.

b. Nhóm người của Lập tìm đến. Kìm và Lập nói chuyện về những

ân oán giữa Lập và cha Kìm.

15.a. Kìm rời bỏ nhóm len trâu (vị thầm yêu Trang - vợ Đẹt), đi tìm ông

bà Hai để trả nợ.

b. Bà Hai đã chết, xác phải bó chiếu treo trên ngọn cây.

c. Kìm và ông Hai đi hạ xác bà Hai, đem neo dưới nước.

d. Mùa nước cạn, Kìm và ông Hai đi tìm xác cha Kìm.



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



39



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



16. a. Ông Hai chết.

b. Kìm đem xác ông Hai chôn ở một cù lao nhỏ.

17.a. Trang và con trai tìm đến Kìm.

b. Trang để lại Thiều nhờ Kìm nuôi giúp rồi bỏ đi.

18. Kìm ở lại mảnh đất đó, nuôi Thiều khôn lớn.

E. Danh sách diễn viên, đạo diễn, người quay phim… ở cuối phim.

Cốt truyện phim Mùa len trâu giản dị nhưng sâu sắc, đầy ám ảnh. Nói

về công việc của mình, đạo diễn – nhà biên kịch Nguyễn Võ Nghiêm Minh

chia sẻ: “Chữ gợi hứng (insprired) rất chính xác, thay vì chuyển thể (adapted)

vì tôi chỉ lấy không khí và một vài nhân vật từ tập truyện này để viết kịch bản

theo những cảm nhận của riêng tôi”5. Quả thật, ngoài những tình tiết, tình

huống của hai truyện ngắn Mùa len trâu và Một cuộc biển dâu, nhà làm phim

đã bổ sung thêm khá nhiều tình tiết, sự kiện, hình ảnh để làm nên một cốt

truyện phim hoàn chỉnh và đặt toàn bộ câu chuyện vào bối cảnh lịch sử của xã

hội miền Nam thời thuộc Pháp. Vì vậy, phim Mùa len trâu, ngoài ý nghĩa về

cảnh sắc thiên nhiên, phong tục tập quán của miền Tây Nam Bộ còn mang

theo nhiều suy ngẫm của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh – Đó là triết lý

về hình tượng nước như một biểu tượng hỗn hợp (mixed metaphor) của sự

sống và sự chết, đồng thời là biểu tượng của thời gian trôi qua. Đó là suy

ngẫm về xã hội miền Nam thời thuộc Pháp với “những thanh niên bản xứ, bất

lực dưới sự đè ép của một cường lực từ bên ngoài, đã xoay ra phát tiết nam

tính bạo tợn của mình trong sự tranh chấp lẫn nhau và đối với phụ nữ”… Có

thể nói, truyện phim Mùa len trâu mang theo nhiều sáng tạo của Nguyễn Võ

Nghiêm Minh và là một cách đọc của riêng ông đối với truyện ngắn của nhà

văn Sơn Nam. Song, nếu không có những “gợi hứng” từ tập truyện Hương

rừng Cà Mau, không có những ám ảnh về nước lũ phù sa sông Cửu Long tràn

5



Phim Mùa len trâu khởi chiếu tại Mỹ - Võ Quý Hạo Nhiên (nguồn: www.vietshowbiz.com)



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



40



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



ngập trong tập truyện với rất nhiều tầng lớp ẩn dụ… thì chắc chắn không có

một Mùa len trâu sâu sắc và ấn tượng đến thế.

3.2. Tiếp thu, bổ sung và cải biên về chi tiết nghệ thuật

Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, chi tiết nghệ thuật chính là vật liệu làm

tiền đề cho cốt truyện. Một tác phẩm tự sự hay không thể thiếu những chi tiết

nghệ thuật hay. Nói về nghệ thuật viết kịch bản phim truyện, nhà biên kịch

Phạm Thùy Nhân cũng khẳng định: “Điện ảnh – đó là chi tiết”. Có thể nói, chi

tiết là yếu tố không thể thiếu để làm nên đời sống của một tác phẩm văn học

cũng như một tác phẩm điện ảnh. Đối với cả văn học và điện ảnh, chi tiết vừa

là chất liệu, là tiền đề thúc đẩy cốt truyện phát triển lại vừa là yếu tố mang

thông điệp, góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Trong quá trình chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh, chi tiết văn

học là nguồn chất liệu vô cùng quan trọng đối với người viết kịch bản chuyển

thể. Đặc biệt, những chi tiết hay – chi tiết phát sáng trong tác phẩm văn học

luôn được nhà làm phim tiếp thu và vận dụng tối đa. Một chi tiết văn học hay

không chỉ là chi tiết chân thực, sinh động mà còn mang tính tượng trưng, hàm

súc rất cao. Giá trị biểu đạt mạnh mẽ của những chi tiết ấy là “tài sản” vô giá,

đáp ứng yêu cầu về tính tập trung, dồn nén của cốt truyện phim. Hầu hết

những chi tiết đắt giá của tác phẩm văn học gốc đồng thời trở thành điểm nhấn

tạo nên sức hấp dẫn của phim chuyển thể. Trong truyện ngắn Tiếng đàn môi

bên bờ rào đá, khi ông Chúng dẫn theo một cô gái trẻ trong đội dân công làm

đường về nhà, cả ba người trong cuộc: ông Chúng – Mao (vợ ông Chúng) –

Hoa (cô gái đi theo ông Chúng), không ai nói với ai một lời nào nhưng qua

hàng loạt những chi tiết nhỏ về ánh mắt, cử chỉ, hành động của từng nhân vật,

nhà văn đã khắc họa vô cùng sâu sắc, tinh tế và xúc động diễn biến nội tâm

của từng nhân vật trong cảnh ngộ đặc biệt ấy: “Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của

mình sang căn buồng của mẹ chồng trước kia… Lúc Mao mang cái hòm riêng



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



41



Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)



từ ngày về nhà chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn

giữ Mao lại. Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng không chịu được

ánh mắt Mao, phải quay mặt để Mao bước ra. Đêm hôm ấy, Chúng ngồi gọt

chuôi dao bên bếp lò, muộn lắm mà không đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa xong

cũng không đi ngủ mà mang bó mùng trắng ra thái. Hai người không nói gì,

chỉ nghe tiếng dao thái vào thân mùng phầm phập…”. Người chồng không

biết phải bắt đầu như thế nào để giải thích cho vợ hiểu về sự xuất hiện của

một người phụ nữ nữa trong gia đình. Người vợ không cần chồng giải thích đã

tự hiểu về cảnh ngộ đang đến với mình – và lặng lẽ chấp nhận, và lặng lẽ rút

lui… Cái ăn năn, day dứt, khó xử… của người chồng khi chặn vợ ở cửa

buồng, không muốn vợ dọn đồ đi. Sự uất ức, tủi hờn, trách móc… trong ánh

mắt nhìn thẳng vào mắt chồng của người vợ. Những yêu thương – hờn tủi,

những day dứt – giận hờn … gửi cả vào tiếng dao thái vào thân mùng phầm

phập, tiếng gọt chuôi dao, gọt mãi, gọt mãi bên bếp lửa bập bùng của đêm dài

vô tận… Cửa buồng cài chặt của người vợ cả (Mao) và cửa buồng không cài,

chỉ khép hờ của người vợ lẽ (Hoa) trong đêm… Tất cả những chi tiết ấy diễn

tả vô cùng tài tình tâm trạng tinh tế, phức tạp của từng nhân vật. Và, chúng đã

được nhà biên kịch – đạo diễn Ngô Quang Hải tiếp thu, vận dụng rất hiệu quả

khi chuyển thể tác phẩm thành phim Chuyện của Pao.

Tuy nhiên, không phải chi tiết quan trọng nào của tác phẩm văn học

cũng được nhà làm phim chuyển thể lên màn ảnh. Trong tiểu thuyết Chùa

Đàn, cuộc đàn “tử biệt sinh ly” giữa cô Tơ – Bá Nhỡ - và Lãnh Út được

Nguyễn Tuân miêu tả rất tỉ mỉ với khá nhiều chi tiết ma quái: “trong buồng

thờ Chánh Thú, có tiếng cười sằng sặc ở sau cái bài vị. Bát hương bàn thờ sứ

chẻ sọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt tre nổ trong lửa. Hai mảnh

sứ nhào lăn xuống nền đất kêu đánh xoảng” [tr401], “Bá Nhỡ vốn đã còm, giờ

lại càng khô sút hẳn đi. Máu tuôn ra nhiều quá, đánh đống quanh chỗ Bá Nhỡ



Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51



42



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×