Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 109 trang )
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
Đến đầu thế kỷ XX, lý luận văn học hiện đại đã xem xét kết cấu
như một phương tiện biểu hiện và biểu đạt, một phương tiện tổ chức tạo
nghĩa trên cơ sở phân biệt kết cấu với những kỹ thuật, thủ pháp riêng lẻ,
thuần túy hình thức. Các nhà nghiên cứu hình thức chủ nghĩa ở Nga và
các nhà nghiên cứu phương Tây hiện đại đã tìm ra cấu trúc bề sâu của
văn bản nghệ thuật – tức là cái cấu trúc có vai trò như một ngôn ngữ chi
phối lời nói, từ đó chi phối văn bản và ý nghĩa của văn bản. Một hướng
đi mới được mở ra cho việc nghiên cứu kết cấu, đó là nghiên cứu các
mối liên kết ở mọi phương diện tổ chức tác phẩm, theo sự phát hiện đời
sống và suy nghĩ của nhà văn tạo thành một hệ thống đem lại hiệu quả
tư tưởng, thẩm mỹ. Sự sắp xếp, tổ chức các yếu tố thuộc về kết cấu
không phải chỉ nhằm tái hiện các sự vật mà còn nhằm làm cho các sự
vật có thể biểu đạt một ý nghĩa nào đó...
Cho đến nay, kết cấu vẫn còn là một khái niệm phức tạp, không
nhất thành bất biến và trong giới nghiên cứu văn học, vẫn còn tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau về kết cấu. Chúng tôi sử dụng khái niệm kết
cấu theo định nghĩa của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi trong công trình Từ điển thuật ngữ văn học (Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2000). Theo đó, kết cấu là “toàn bộ tổ chức sinh
động và phức tạp của tác phẩm” dưới sự chi phối của một quan niệm
nghệ thuật nhất định. “Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng có một
kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái
quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng: bộc lộ
tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt
truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật
của tác giả, tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng
thẩm mỹ” [38, tr.132].
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
71
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
Để hiểu rõ khái niệm kết cấu, cần phân biệt khái niệm này với
một số khái niệm gần gũi, tương liên như “bố cục”, “cấu trúc” - những
khái niệm đôi khi đã được dùng để thay thế cho khái niệm kết cấu và
ngược lại:
Bố cục, là sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của
tác phẩm theo một trình tự nhất định. Ta có thể dễ dạng nhận ra bố cục
căn cứ vào sự phân chia chương, đoạn, phần… Sự phân chia đó thường
được thể hiện bằng những dấu hiệu có thể nhận biết được bằng trực
quan như: số, dấu hoa thị, những dòng để trống… trên văn bản tác
phẩm. “Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn.
Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những
tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm
sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác
phẩm” [38, tr.132]. Như vậy, bố cục cũng là một phương diện của kết
cấu. Nhưng ngoài bố cục, “kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ thống tính
cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ
thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện; nghệ
thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện…” [38, tr.132].
Cũng cần phân biệt kết cấu và cấu trúc. Đây là hai khái niệm khá
gần gũi. Sự phân biệt chúng cũng chỉ mang tính tương đối. Khoa học
hiện đại xem hệ thống như một tổng thể, gồm các thành phần có quan
hệ và liên hệ với nhau. Trong đó, cấu trúc là phần bất biến của hệ
thống, là sự thống nhất bền vững, lặp lại của các quan hệ, các yếu tố
thuộc hệ thống. Kết cấu bao gồm cả phương diện bất biến (các quy luật,
các phương thức, các nguyên tắc tổ chức tác phẩm có tính ổn định) và
cả sự thể hiện đa dạng, sinh động, cá biệt của cái ổn định đó, tạo thành
sức hấp dẫn không lặp lại của tác phẩm.
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
72
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
Hình thức kết cấu của tác phẩm văn học rất phong phú, đa dạng.
Nhìn chung, các tác phẩm văn xuôi tự sự từ xưa đến nay thường được tổ
chức theo một số hình thức kết cấu như: kết cấu tuyến tính (kết c ấu theo
trình tự thời gian); kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập hoặc song
song; kết cấu đa tuyến; kết cấu phi tuyến tính (kết cấu đảo trật tự thời
gian); kết cấu tâm lý; kết cấu phân mảnh… Nhà văn khi lựa chọn một
kiểu kết cấu nào đó cho tác phẩm của mình, bao giờ cũng nhằm nâng
cao sức biểu hiện của tư tưởng chủ đề, tăng cường sức tác động thẩm mĩ
của tác phẩm đối với người đọc.
3.2. Kết cấu phim
Tương tự như trong văn học, kết cấu phim truyện điện ảnh được
coi là sự sắp xếp, tổ chức tất cả các yếu tố nội dung và hình thức để bộ
phim trở thành một chỉnh thể thẩm mỹ toàn vẹn.
Trong sự phân chia các loại hình nghệ thuật, điện ảnh cùng với
sân khấu, ba lê, Ô-pê-ra, hoạt họa cùng được xếp vào nhóm các nghệ
thuật tổng hợp 10. Song có lẽ, tính chất tổng hợp ở nghệ thuật điện ảnh là
tối đa và triệt để nhất. Nó bao hàm những yếu tố, những ký hiệu thẩm
mỹ của văn học, hội họa, âm nhạc...: “Phim kể chuyện không phải bằng
lời nói mà bằng việc sắp xếp và tổ chức những thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau, trong đó đôi khi là cả những văn bản trần thuật viết và
những lời kể chuyện có thực…” [16, tr.8]. Kết cấu phim chính là việc
lựa chọn, sắp xếp, tổ chức khối “dữ liệu” phong phú ấy thành một chỉnh
thể thống nhất, có hiệu quả biểu đạt cao nhất. Phim truyện điện ảnh có
kết cấu phức tạp của những ý nghĩa tạo nên từ “truyện kể bằng hình ảnh
động” bao hàm nhiều ngôn ngữ khác nhau: nó sáp nhập những thông
10
Theo cách phân chia của V.Kôrinôp trong Các loại hình nghệ thuật, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà nội
1963
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
73
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
điệp bằng miệng, những thông điệp bằng nhạc, những âm thanh, hình
ảnh, hội họa, hóa trang, đạo cụ…
Trong công trình Nhập môn phân tích phim theo trần thuật học,
tác giả Manfred Jahn cũng đã định nghĩa phương thức kết cấu phim là
“cách sắp xếp và tổ chức một bộ phim, được dẫn dắt bởi những nguyên
tắc của việc cung cấp thông tin thích đáng, đầy đủ và hiệu quả. Phương
thức kết cấu phim lựa chọn những gì nó cần từ những nguồn thông tin
khác nhau và sắp xếp, chọn lọc và tổ chức thông tin này cho việc kể câu
chuyện của bộ phim”. Phương thức kết cấu phim có quyền năng và vai
trò rất quan trọng: “Để kể một câu chuyện của bộ phim, phư ơng thức
kết cấu phim có thể tự do chấp nhận, trích dẫn, thể hiện dữ liệu từ nhiều
nguồn khác nhau theo sự sắp đặt của chính nó”. Vai trò to lớn của kết
cấu phim được Manfred Jahn mô hình hóa qua sơ đồ:
Phương thức kết cấu phim
Người kể chuyện
Nhân vật
Trong mô hình này, Manfred Jahn đưa ra ba thực thể mang tính lý
thuyết, thể hiện cho ba cấp độ “quyền lực” của bộ phim: Phương thức
kết cấu phim, Người kể chuyện và Nhân vật. Các hộp (box) tượng trưng
cho các “ngưỡng điều khiển và tri nhận”. Riêng “hộp” người kể chuyện
được thể hiện bằng những nét đứt quãng bởi nó là yếu tố có thể sẽ vắng
mặt trong một hay thậm chí là nhiều bộ phim. Những thực thể ở cấp độ
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
74
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
cao hơn sẽ chi phối và dàn xếp những thực thể ở cấp độ thấp hơn. Đặc
biệt, những thực thể ở cấp độ thấp hơn sẽ không bao giờ nhận thấy sự
tồn tại của những thực thể ở cấp độ cao hơn nó. Ở mô hình này, nhân
vật được coi là tác nhân cơ sở, tiếp đến là người kể chuyện và cao nhất
là phương thức kết cấu phim. “Các nhân vật không biết rằng chúng
đang là những nhân vật trong câu chuyện của ai đó và chún g không thể
phàn nàn nếu những hành động, hình ảnh và sự chuyển động của chúng
bị diễn xuyên tạc” [16, tr.8]. Người kể chuyện trong phim (nếu có) cũng
sẽ không nhận thức được rằng anh ta / cô ta chỉ là một nguồn thông tin
được sử dụng bởi phương thức kết cấu phim, vì những mục đích của
chính nó. Và cuối cùng, phương thức kết cấu phim chính là tác nhân có
quyền lực cao nhất trong hệ thống thứ bậc của bộ phim. Mọi thông tin
của một bộ phim rốt cuộc đều bắt nguồn từ sự sắp xếp, sự lựa chọn, sự
tổ chức, sắp đặt của phương thức kết cấu phim.
3.3. Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh từ góc nhìn kết cấu
Cả với tác phẩm văn học và phim truyện điện ảnh, kết cấu chính
là sự lựa chọn, sắp xếp và tổ chức các yếu tố nội dung và hình thức của
tác phẩm để làm nên một chỉnh thể thẩm mỹ có hiệu quả biểu đạt cao
nhất, thể hiện tốt nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Bởi vậy, kết cấu
tham gia vào rất nhiều bình diện của tác phẩm: từ lựa chọn, sắp xếp các
hành động, sự kiện đến tổ chức hệ thống nhân vật, tổ chức và liên kết
các thành phần của cốt truyện, tổ chức không gian – thời gian nghệ
thuật, trình bày các yếu tố ngoài cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần
thuật… Những vấn đề về nghệ thuật tổ chức nhân vật và cốt truyện
trong quá trình chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh, chúng tôi đã
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
75
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
phân tích trong Chương 1 và Chương 2 của luận văn. Ở chương này,
chúng tôi tiếp tục phân tích quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh trên các phương diện: bố cục và tổ chức không gian
– thời gian nghệ thuật. Đây là những yếu tố cơ bản, quan trọng của nghệ
thuật kết cấu đồng thời cũng là những phương diện bộc lộ nhiều nhất
các mối tương quan giữa kết cấu tác phẩm văn học và kết cấu phim.
Qua đó, chúng tôi sẽ làm rõ quá trình điện ảnh vừa tiếp thu, vừa “t ái
cấu trúc” lại tác phẩm văn học cho phù hợp với đặc trưng của ngôn ngữ
điện ảnh trong khi chuyển thể.
3.3.1. Bố cục
Ở cả bốn trường hợp mà chúng tôi lựa chọn làm đối tượng khảo
sát của luận văn: chuyển thể tiểu thuyết Thời xa vắng thành phim Thời
xa vắng, chuyển thể tiểu thuyết Chùa đàn thành phim Mê Thảo thời
vang bóng, chuyển thể truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá thành
phim Chuyện của Pao, chuyển thể hai truyện ngắn Mùa len trâu và Một
cuộc biển dâu thành phim Mùa len trâu; phim truyện chuyển thể đều có
sự thay đổi, xáo trộn lại về mặt bố cục so với tác phẩm văn học gốc.
Sử dụng hình thức kết cấu tâm lý, truyện ngắn Tiếng đàn môi sau
bờ rào đá được triển khai theo mạch diễn biến tâm lý của nhân vật May.
Truyện bắt đầu với chuyến sang sông canh nương rẫy của ông Chúng,
ngôi nhà thiếu vắng bóng dáng người đàn ông bỗng trở nên vắng vẻ,
quạnh hiu; và ngoài kia, tiếng đàn môi gọi bạn thiết tha, giục giã… cứ
gọi mãi, gọi mãi phía sau bờ rào đá; tiếng chân ngựa ngập ngừng, bồn
chồn, mong đợi… tất cả khiến May không sao ngủ được. Cô suy nghĩ
miên man về bộ váy áo “thêu bảy màu như cầu vồng” cất trong chiếc
hòm gỗ trước mặt mà mẹ già đã hứa cho May mang theo khi lấy chồng thế mà đêm qua May lại thấy mẹ già mở hòm mang bộ váy áo đó ra thử;
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
76
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
rồi từ đó May lại nghĩ về chuyến sang nương “không bình thường” của
bố… Những hành động, sự kiện “không bình thường” ấy được giới
thiệu qua những suy tư, trăn trở của cô gái trẻ là dấu hiệu cho thấy
những “bất ổn” trong gia đình May. Hàng loạt câu nghi vấn dồn dập của
May: “Mẹ già định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi,
họ hàng chắc cũng không còn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Hay
là mẹ già định đi hội chợ 27 tới đây? Nếu thế thì… thì sao hở May? Có
phải vì bố bỏ sang nương không? Hay vì bố biết mẹ già địn h đi hội chợ
tháng 3 năm nay mà bố đi?...” báo hiệu sắp có điều gì hệ trọng xảy ra.
Rồi ông Chúng trở về nhà, và chính ông – vô hình hay hữu ý – lại là
người giục vợ mang rượu ngô đi bán ở hội chợ xuân 27… Câu chuyện
thắt nút ngay ở những sự kiện đầu tiên ấy. Và dường như May đã đoán
ra nguyên nhân của những điều “khó hiểu”, “khó nói” đang diễn ra
trong gia đình mình: “Tất cả cũng chỉ tại một người mới đến, rồi lại đi
trước Tết. Đi luôn thì thôi, đằng này còn hẹn ra xuân sẽ quay lại. Nếu
đúng lời hẹn thì người ấy cũng sắp quay lại rồi”. Từ đó, qua hồi ức của
May – cô con gái lớn trong gia đình – câu chuyện về gia đình May, về
quan hệ đặc biệt giữa ông Chúng, mẹ già và mẹ Hoa dần dần hiện ra.
Đó là chuyện về lần trở về trước Tết một tháng của mẹ Hoa, chuyện v ề
cuộc sống gia đình May: từ khi cô Mao (mẹ già) nổi tiếng đẹp người
đẹp nết về làm vợ ông Chúng, mãi mà hai người không có con, rồi ông
Chúng đi dân công làm đường, đưa theo mẹ Hoa cùng về… đến khi mẹ
Hoa lần lượt sinh hai chị em May, mẹ Hoa bỏ xuống phố huyện mở sạp
bán giày vải, hai chị em May nằm trong địu trên lưng mẹ già, “nhay bầu
vú chưa bao giờ có sữa của mẹ già”, cứ thế mà lớn lên… Câu chuyện
trong hồi ức của May chính là sự trình bày, giải thích cho những sự
kiện “không bình thường”, “khó hiểu” đã được khởi lên ở ngay đầu
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
77
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
truyện. Trở về với hiện tại, với cuộc gặp gỡ - hẹn hò – và cùng đi chơi
chợ xuân 27 giữa May và Chử, câu chuyện nhanh chóng đi đến cao
trào, đỉnh điểm khi đêm ấy, sau hội chợ xuân 27, May bắt gặp mẹ già
chạy ra mở cổng, hồi hộp trước tiếng đàn môi gọi bạn dành riêng cho
mẹ - tiếng đàn ấy “dài hơn trầm hơn, ngập ngừng hơn” tiếng đàn môi
của Chử dành cho May nhưng “vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như
suối chảy”… Câu chuyện kết thúc ngay ở thời khắc cao trào ấy, trước
sự sững sờ, bối rối của May, để lại trong lòng người đọc những dư âm
thú vị… Khi chuyển thể thành phim Chuyện của Pao, biên kịch – đạo
diễn Ngô Quang Hải đã đưa sự kiện đóng vai trò là cao trào, đỉnh điểm
của phim - cái chết bí ẩn, khó hiểu của mẹ già – lên ngay trường đoạn
mở đầu phim. Sau cái chết của mẹ già, bố Pao đau buồn, suốt ngày chỉ
uống rượu rồi ngã bệnh. Cùng với quyết định đi tìm mẹ Sim về cho tuổi
già cô độc của bố, câu chuyện về gia đình Pao được kể lại bằng hình
thức phục hiện, qua lời tự sự của Pao – nhân vật người kể chuyện đồng
thời là nhân vật chính của phim: “Từ ngày mẹ già không còn, hôm nay
bố mới lại nhắc đến người đàn bà ấy. Chuyện cũ, từ lâu tôi đã muốn
chôn chặt trong lòng”. Ngay sau lời dẫn truyện của Pao: “Bao nhiêu
đêm mẹ ôm tôi vào lòng kể về cuộc đời của mẹ. Ngày ấy, ai cũng biết
cô Kía đẹp người đẹp nết…”, phim cắt dựng nhanh sang cảnh phục hiện
“20 năm trước”. Và từ đó, câu chuyện diễn ra tuần tự cùng với lời dẫn
chuyện của Pao: từ mở đầu, thắt nút đến phát triển lý giải cho cao trào
đã mở ra ở đầu phim. Cuối phim, quay trở lại với hiện tại, với hành
trình đi tìm mẹ Sim của Pao, trên đường trở về Pao gặp lại mẹ già trong
cuộc sống mới của bà – sống cùng người đàn ông mà bà yêu thương từ
thời son trẻ (chính là cha của Chử) trong một quán nước nhỏ ven
đường. Mẹ Sim đã có cuộc sống mới, bà cũng không thể trở lại với cha
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
78
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
của Pao và cha Pao đã ra đi trong cô đơn… Khác với truyện ngắn Tiếng
đàn môi sau bờ rào đá, cùng với việc bổ sung thêm một số chi tiết, sự
kiện, một số nhân vật phụ, phim Chuyện của Pao không dừng lại ở một
kết thúc mở mà mỗi nhân vật đều có một kết cục cho riêng mình. Có thể
nói, truyện phim được xây dựng với đầy đủ thành phần của một cốt
truyện truyền thống nhưng được bố cục lại theo sáng tạo riêng của nhà
biên kịch – đạo diễn Ngô Quang Hải.
Trong các bộ phim mà chúng tôi chọn làm đối tượng khảo sát,
Thời xa vắng là bộ phim bám sát kết cấu của nguyên tác nhất. Ngoài
cảnh đầu tiên của phim: cảnh con gái của Tuyết và Sài ra bến đò đón bố
và trường đoạn cuối phim: đám cưới của co n gái Tuyết – Sài thì phần
nội dung còn lại của phim được tổ chức hoàn toàn theo kết cấu tuyến
tính. Trường đoạn đầu tiên về việc gia đình Sài mang đồ lễ sang nhà
Tuyết hỏi cưới Tuyết cho Sài và những phong tục, nghi lễ cưới xin của
vùng nông thôn Bắc Bộ xưa là “sáng tạo” mới của phim chuyển thể so
với tác phẩm văn học gốc. Những sự kiện còn lại trong diễn biến truyện
phim phần lớn được lấy “chất liệu” ngay trong tiểu thuyết Thời xa vắng
và trình tự của các sự kiện ấy trên phim cũng hầu như được giữ nguyên:
1. Thói quen đi làm thuê của dân làng Hạ Vị;
2. Sự kiện Sài đuổi vợ và cuộc họp gia đình về chuyện vợ chồng
Sài;
3. Ủy ban kháng chiến phổ biến chủ trương chống đói, cấm dân
làng Hạ Vị đi làm thuê và trao tặng danh hiệu “Đội viên tháng 8”;
4. Vỡ đê bối, dân làng Hạ Vị phải chạy lụt;
5. Chuyện của Sài và Hương trong ngày chạy lụt bị phát hiện.
Ông Hà và anh Tính tìm cách “rửa tội” cho Sài;
6. Sài nhập ngũ;
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
79
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
7. Cuốn nhật ký của Sài bị phát hiện và đơn vị tổ chức cuộc họp
giao ban về vấn đề tư tưởng của Sài;
8. Tuyết lên đơn vị thăm chồng;
9. Hương lên thăm Sài nhưng vì Hiểu nói dối Sài đi vắng nên
không gặp được Sài.
10. Sài và đồng chí chủ nhiệm chính trị về nhà Sài tìm hiểu lý lịch
gia đình và vấn đề vợ con của Sài để chuẩn bị kết nạp Đảng cho Sài;
11. Chủ nhiệm chính trị khuyên nhủ Sài phải yêu vợ;
12. Hương viết thư cho Sài báo tin mình lấy chồng;
13. Sài quyết định xin đi B.
So với tiểu thuyết, ngoại trừ sự kiện Sài đánh và đuổi vợ đi ở
phần mở đầu của tiểu thuyết được đẩy xuống sau những cảnh về thói
quen đi làm thuê của dân làng Hạ Vị thì các sự kiện còn lại của phim
Thời xa vắng được sắp xếp theo trình tự giống như trong tiểu thuyết.
Tuy nhiên, để chuyển thể từ 120 trang 11 tiểu thuyết bao gồm 6 chương
thành một bộ phim có thời lượng 180 phút thì đạo diễn Hồ Quang Minh
cũng đã phải lược bỏ bớt nhiều chi tiết, sự kiện trong tiểu thuyết (như
chúng tôi đã phân tích trong Chương 1). Đó là vì đặc trưng của phim
truyện điện ảnh quy định nhưng cũng là hiện tượng tất yếu của quá trình
chuyển thể. Như vậy, dù được chuyển thể tương đối sát so với nguyên
tác, bộ phim Thời xa vắng vẫn có những thay đổi nhất định về mặt bố
cục so với tiểu thuyết Thời xa vắng.
So với phim Chuyện của Pao và Thời xa vắng, ở hai phim chuyển
thể: Mùa len trâu và Mê Thảo thời vang bóng, bố cục của phim còn có
nhiều thay đổi hơn so với tác phẩm văn học gốc bởi ở hai bộ phim này,
11
Căn cứ theo ấn phẩm tiểu thuyết Thời xa vắng, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005.
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
80
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)
người chuyển thể đã bổ sung thêm khá nhiều chi tiết, sự kiện mới vào
cốt truyện phim.
Có thể nói, những thay đổi, xáo trộn về mặt bố cục (dù ít hay
nhiều) là hiện tượng khá phổ biến khi chuyển thể tác phẩm văn học lên
màn ảnh. Thay đổi ấy là nhằm phục vụ ý đồ sáng tạo riêng của người
chuyển thể đồng thời là đòi hỏi của điện ảnh cần phải sắp xếp các chi
tiết, sự kiện, tổ chức các cảnh, các đoạn phim theo yêu cầu riêng của
phim truyện điện ảnh.
3.3.2. Tổ chức không gian – thời gian
Ngôn từ văn học có những khả năng rất đặc biệt trong việc tái
hiện không gian - thời gian. So với các loại hình nghệ thuật tĩnh như:
hội họa, điêu khắc, kiến trúc... văn học không chỉ tái hiện một khoảnh
khắc thời gian tĩnh tại, cụ thể mà có thể bao quát cả quá trình đời sống
diễn ra trong thời gian. Hơn thế nữa, thời gian của văn học không phải
là sự phản ánh máy móc thời gian một chiều của hiện thực khách quan
mà là sự tái tạo thời gian trong những mối liên hệ đa dạng, nhiều chiều,
nhiều lớp. So với các loại nghệ thuật khác như sân khấu, điện ảnh…,
văn học đặc biệt có thế mạnh miêu tả thời gian trong ý thức, trong sự
cảm thụ của con người. Thời gian của đôi lứa yêu nhau mà phải chia
phôi, xa cách, được cụ Nguyễn Du miêu tả tài tình trong hai câu thơ nổi
tiếng:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê
chắc chắn không đạo diễn tài năng nào có thể chuyển tải đầy đủ, trọn
vẹn sang ngôn ngữ điện ảnh. Thời gian chủ quan, thời gian tro ng tâm
tưởng, thời gian mang quan niệm là những khả năng của thời gian trong
văn học mà khó có loại hình nghệ thuật nào có được.
Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
81