Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.5 MB, 149 trang )
tính chân/ ngụy của một câu cũng phải xác định được hệ quy chiếu trong thế giới khả hữu
(possible worlds - cách chuyển dịch của GS. TS. Đỗ Hữu Châu). Một thông tin đưa ra
không phải chỉ để miêu tả mà bao giờ cũng có chủ định (intention), thể hiện niềm tin
(belief), theo một kế hoạch (plan) nhất định và bằng một loạt hành động (actions). Dụng
học nghiên cứu ý định khi nói, niềm tin theo một k ế hoạch và một loạt các hoạt động
hướng đích khi phát ngôn. Có thể đặt những cáu hỏi sau về thông tin trong phát nsôn:
Thông tin được nói ra với mục đích gì ? Thông tin dó là gì ? Thông tin là lõi của phát
ngôn. Người nói, thông qua lõi thông tin này (bao gồm cả thông tin mệnh đề, thõng tin
tình thái, thông tin về lực ngôn trung), nhằm thực hiện hàng loạt mục đích khác nhau. Vì
vậy, không thể tách ngữ nghĩa khỏi ngũ' dụng. Nội dung ngữ nghĩa được tổ chức dể phục
vụ ngữ dụng. Thông tin được tổ chức theo các kiểu khác nhau để đạt đích. Không có
đường ranh giới rõ nét giữa ngữ nghĩa và ngữ đụng. Trong ngữ nghĩa có ngữ dụng và
trong ngữ dụng có ngữ nghĩa. Nói cách khác, ngữ nghĩa được thống hơp (Thuật ngữ của
GS, TS. Đỗ Hữu Cháu [11]) trong ngữ dụng. Ngữ dụng được tích họp vào ngữ nghĩa. Ngữ
dụng thống họp ngữ nghĩa và cú pháp. Trong cuốn Linguistics (Ngôn ngữ học), Jean
Aitchison cho rằng ngữ dụng học có vai trò tổng hợp, bao trùm đối với các lĩnh vực ngôn
ngữ học tiền dụng học, và Aichison mô tả mối quan hệ đó một cách khái quát trong lược
đồ ở phụ lục 1 của công trình này này. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “ngữ nghĩa - ngữ
dụng” với cách hiểu như vậy về mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và ngữ đụng.
Cho đến nay, đã xuất hiện hàng loạt công trình nghiên cứu về dụng hoc của các tác giả
như: S.T. Levinson [131], I.s. Allwood [96], G. Gazdar [111].... ở Việt Nam có thể nói
đến các Giáo sư Hoàng Phê [55], Nguyễn Đức Dàn [18],[19], Cao Xuân Hạo [37], Đỗ
Hữu Châu [11], Diệp Quang Ban [2], Nguyễn Thiện Giáp [35] và Lê Đông [31],... Theo
chúng tôi, từ các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu trên, có thể rút ra những
nhận xét sau:
(1) Phạm vi quan tâm của ngữ dụng học rất rộng. Khái niệm “ngữ cảnh” nằm trong mối
quan hệ bổ sung với “ hành vi ngón ngữ “ và, sự tương tác giữa hai khái niệm này tạo
thành lõi cơ bản cửa các công trình nghiên cứu ngữ dụng. Việc trình bày các quy tắc của
sự tưong tác này là nhiệm vụ của ngữ dụng học.
(2) Ngữ dụng học đáp ứng được cách tiếp cân thons hop đối vói ngôn nsữ . Nó khắc phục
được nhũng hạn chế của một thời kv mà châm ngôn vé tính khu biệt dã tro thành hòn đá
tảng của ngôn ngữ hoc cấu trúc. Với sự xuất hiên và phát triến cua
ngữ dunc học,
IX
khoảng cách giữa ngốn ngữ và đời sống ngày càng được rút ngắn hơn qua việc người ta
nhận thức được rằng không chỉ ngón ngữ vẽ nên bức tranh về thế giới mà dời SỐI12 cũng
cho chìa khoá để hiểu nhiều hiện tượng của ngón ngữ và lời nói. Chiều thứ hai của mối
quan hệ này có tính quyết định cho sự thành công của các công trình nghiên cứu neữ
dụng học [1], Từ nhận xét trên , có thể thấy ràng, cần phải hiểu rõ về phần cốt lõi trong
nghiên cứu ngữ dụng học : khái niệm ngữ cảnh và hành vi ngôn ngữ. Ngữ cảnh, dưới góc
độ dụng học, được hiểu không chỉ là mối tương quan định vị trong văn bản, trong không
gian, thời gian giao tiếp, mà còn bao gồm những mối quan hệ với các chủ thể giao tiếp,
với vốn tri thức nền và ý kiến cùa họ, với mục đích, định hướng giao tiếp, tiền giả định.
Phức thể các nhân tố đã nêu tạo thành một bức tranh đa dạng về ngữ cảnh. Sử dụng từ
"phức thể", chúng tôi muốn nói đến mối quan hệ tương tác giữa các nhân tố này - chẳng
hạn như giũa người nói và người nghe với tất cả các đặc trưng: giới tính, lứa tuổi, trình độ
học vấn, tính chất của mối quan hệ, vị thế xã hội - gia đình
V .V ....
Liên quan đến ngữ cảnh
còn có rất nhiều nội dung quan trọng khác. Nhiều nhà nghiên cứu đã có nhận xét rằng "Sự
quan tâm đến dụng học được bắt đầu ở những nơi mà mối dây liên hệ giữa ngữ cảnh và
hành vi ngôn ngữ căng tới mức tối đa" [1, 6]. Cách diễn đạt này có thể được hiểu một
cách cụ thể hơn khi chúng ta xác định được một số nội dung cụ thể mà nhận xét này
hướng tói:
T h ứ n h ất, đây là phạm vi của những yếu tố "phi miêu tả". Chẳng hạn, khi bạn muốn giải
thích cho con bạn từ "sư tử", bạn có thể dẫn con bạn vào vườn thú và nói rằng "Hãy nhìn
này, đây là con sư tử". Nhưng, không có vườn thú nào mà ở đó bạn có thể chỉ ra cho con
bạn các từ "nếu", "này" hoặc "tuy nhiên" (Ví dụ của B. Rassel - dẫn theo [1, 6]).
T h ứ hai, đày là phạm vi của các từ tình thái, nhữns yếu tố thường đaợc dùng để biểu thị
thái độ của người nói. Thủ pháp phân tích cơ bản là vạch ra những ngữ cảnh điển hình của
chúng, những điều kiện và các quy tắc sừ dụng. Từ đó, có thê thấy rằng, ờ những trườns
hợp nhất định, ý níĩhĩa của các yếu tố gắn bó chặt chẽ với cách sử dụng . Việc chú trọng
vào nhân tố con người cũng cho thấy một số nội dung quan trọng khác của ngữ cảnh.
Trong đó, có sự phụ thuộc cùa ý nghĩa vào các nhân tố tâm lý và logic. Chẳng hạn như các
cấp so sánh tính từ xét trons tương quan đối với người sử dụnc. Mặt khác, người ta cũng
thường lưu ý đến sự phân biệt giữa ngữ cảnh hướns xã hội (societal context) và ngữ cảnh
nảy sinh do quá trình tương tác bằng lời nói (social context) cũng đươc xem xét. Loại ngữ
cảnh hướng xã hội này là nhân tố tạo nên "sự khác biệt giữa các ngôn ngữ trong cách
19
dùng" [18, 12]. Đây là loại ngữ cảnh có tác dụng chi phối cách thức sử dụng ngôn ngữ
sao cho phù hợp với từng loại xã hội nhất định. Vai trò của ngữ cảnh và việc phân tích
ngữ cảnh là rất quan trọng. Có thể nói rằng chính ngữ cảnh vừa mở ra con đường đi vào
dụng học, vừa đảm bảo cho dụng học một sứ mệnh tổng hợp.
Việc phân tích n°ữ cảnh trờ
thành phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong các cõng trình nghiên cứu dung học.
1.1.2. Hành vi ngôn ngữ và hành vi ngôn ngữ hỏi.
1.1.2.1. Khái lược về HVNN và bản chất của HVNN hỏi.
Ở mức độ khái quát nhất, ngôn ngữ có thể được định nghĩa "là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của xã hội loài người" (V. Lênin). Việc quan niệm ngôn ngữ trước hết là một
phương tiện để thực hiện hoạt động hướng đích nào đó đã khiến người ta phải quan tăm
tới những khả năng làm công cụ của các phát ngôn. Quan niệm này dã mang đến cho các
phát ngồn ý nghĩa có tính "hành vi". Thuật ngữ “hành vi ngôn ngữ” lần đầu tiên được đề
cập trong các công trình nghiên cứu của J. Austin (1961) và đã được nhiều nhà nghiên cứu
ngôn ngữ học theo trường phái chức năng sử dụng. Ở giai đoạn những năm I960, losic
học vẫn có sự ảnh hưởng rất lớn đối với ngôn ngữ học. Đơn vị câu thường dược đánh giá
theo logic lưỡng trị (đúng / sai), và việc phân tích câu chủ yếu được dựa vào các khái niệm
thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Trong tình hình đó, việc xem xét
các hoạt động của lời nói theo thuyết hành vi ngôn ngữ cho phép phát hiện bản chất của
nhiều hiện tượng ngôn ngữ mà cho tới lúc dó vẫn còn bị xem nhẹ. Cho đến nay, có nhiều
cách phân loại vể hành vi ngôn ngữ nhưng cách phân loại của J. Searle [146], J. Austin
[98],[157] và A.Wierzbieka [155] được chú ý nhất. Đây là những cách phân loại dựa vào
biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi. Hành vi ngôn ngữ hỏi là một loại hành vi điển hình
trong bảng phân loại của các tác giả trên. Bản chất của hành vi hỏi là loại hoạt động bằng
lời với đích ngữ dạng chủ yếu ]à thu nhận thông tin hoặc gây ra các phản ứng hồi đáp
khác nhau từ tiếp thê / chủ thể tiếp nhận (recipient / affected participant). Thành phẩm
của hành vi ngôn ngữ hỏi là các “câu - phát ngôn’’ hỏi. Câu hỏi chính danh thường là sản
phẩm của hành vi hòi với mục đích thu nhận thôns tin.
Thuyết hành vi ngôn ngữ, khi được áp dụng vào nghiên cứu,
đã dẫn đến sự thayđổi lớn
trong quan niệm về ý nghĩa. Ý nghĩa, xét trong tương quan với hành vi nsón ngữ, được coi
như là thành phần quan hệ nguyên nhân trong mô hình có tính biểu tượng và đon giản hoá
của thuyết hành vi luận: "kích thích - phản ứng". Dưới góc độ này, ý nghĩa được xem xét
20
dựa vào khả nãng tác động của nó đến người tiếp nhận và gây nên một phản ứng hồi đáp
(hành động - tâm lý) nào đó. Đó là quá trình dụng học hoá ý nghĩa. Quá trình này là hệ
quả về mặt nhận thức của việc vận dụng khái niệm hành vi ngôn ngữ vào nghiên cứu ngữ
nghĩa. Thông qua khái niệm này, người ta thấy rõ tính bị khống chế (sự ]ệ thuộc vào các
quy tắc, quy ước sử dụng) và tính có mục đích rõ nét của ngôn ngữ. Từ đó, ý nghĩa được
gắn với quy tắc sử dụng. Nói cách khác, ý nghĩa được ngữ pháp hoá. Sự dụnơ học hoá ý
nghĩa này đã dẫn đến những hệ quả có tính thực tiễn sâu sắc. Ý nghĩa của các phát ngôn
ngày càng được xem như không thể tách khỏi ngữ cảnh (hoàn cảnh) dune học. “Còn ý
nghĩa của nhiều từ thì bắt đầu được định nghĩa qua việc chỉ ra mục đích giao tiếp của
hành vi ngôn n g ữ ” [1,6].
1.1.2.2. Tính hướng đích của hành vi ngồn ngữ.
Hành vi ngôn ngữ bao giờ cũng có tính hướng đích. Hay nói cách khác, mục đích
là
thuộc tính của hành vi ngôn ngữ. Trong mô hình "kích thích - phản ứng", thì có thể xem
"phản ứng" chính là mục đích ở dạng được hiện thực hoá. Tuy nhiên, mục đích cũng là do
con người đặt ra và có thể bị thay đổi. Hành vi ngôn ngữ với toàn bộ phổ mục đích của nó
được thể hiện trong đối thoại thông qua các phát ngôn. Đối thoại luôn lệ thuộc vào tâm lý
liên cá nhân. Nó cũng phụ thuộc trực tiếp vào các nhân tố xã hội. Những người tham gia
giao tiếp đối thoại đóng những vai nhất định quy định các mô hình hành vi ngôn naữ . Vì
vậy, có thể xem chính hình thức tồn tại này của ngôn ngữ là tư liệu để từ đó rút ra các quy
tắc của giao tiếp. Sự đi chệch khỏi các quy tắc một cách có chủ ý sẽ tạo ra các hàm ý hội
thoại (Conversational implicature). Ví dụ: A - Người ủn chay có ăn thịt bám viên không?
B- Gù có m ôi không ? [157], Trong mẩu thoại này, việc B không trả lời trực tiếp vào câu
hỏi của A mà đưa ra một câu hỏi khác có thể được xem như là sự đi chệch khỏi quy tắc
hỏi - trả lời, vi phạm phương châm quan hệ (relation maxim [157]) trong hội thoại một
cách có chủ ý. Các nhân tố phi quy ước trong ý nghĩa của hành vi ngón ngữ là rất đáng
quan tâm đối với dụng học. Vì vậy, trong cách hiểu hẹp về nhiệm vụ của dụng học, người
ta thường giới hạn đối tượng nshiẽn cứu của nó trong phạm vi các hàm ngôn cá thể hoá
(particularized implicature).
1.1.2.3. Khái niệm chủ thể phát ngôn.
Liên quan trực tiếp đến khái niệm hành vi nsôn ngữ là khái niệm chủ thê phát ngòn
(speaker). Khái niệm này hao chứa nhiều nhất những vấn để cần yếu cua dụng học. Chủ
thể phát ngốn, dù có thể chịu sự chi phối, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, từ nhiều
phía khác nhau, nhưng luôn giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với hành vi ngôn ngữ.
Chủ thể phát ngôn là trung tâm cùa hành vi ngôn ngữ. Việc hướng tới chủ thể phát ngôn
trong nghiên cứu ngôn ngữ là biểu hiện cùa sự chuyển biến từ việc phân tích ý nghĩa tĩnh
sang nội dung biến động của phát ngôn. Với sự chuyển biến này, con người như một
phức thể tâm lý, đã trở thành trung tâm tổ chức của “ không gian ngữ nghĩa” [1],
1.1.2.4. Phân loại hành vi ngón ngữ.
Phát ngôn là sự hiện thực hoá hành vi ngôn ngữ. Theo Austin, trong một phát ngôn có ba
loại hành vi ngôn ngữ: Hành vi tạo lời (locutionary act), hành vi tại lời (illocutionary act)
và hành vi mượn lời (perlocutionary act). J. Searle đã có những đóng góp quan trọng vể
thuyết hành vi ngôn ngữ. Một trong nhũng đóng góp quan trọng nhất của Searle liên quan
đến thuyết hành vi ngôn ngữ là việc đưa ra khái niệm hành vi ngôn ngữ gián tiếp (indirect
speech acts) [146] cùng với việc phân tích cụ thể về cơ chế hình thành loại hành vi này.
Đây là một vấn đề hấp dẫn, lý thú vì nó đề cập đến một phạm vi thể hiện rất nhiểu các
đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ dụng khác nhau của phát ngôn. Hành vi tại lời (HVTL) thường
được các tác giả phân ra thành các loại hành vi khác nhau. Có hai hướng phân loại chính,
đó là hướng phân loại của Austin và hướng phân loại của Searle. Dựa vào các động từ ngữ
vi, J. Austin phân loại các hành vi tại lời thành năm lớp lớn: phán xét (verdictive), hành
xử (exercitive), cam kết (commissive), ứng xử (behabitive), bày tỏ (expositive). Searle,
dựa vào biểu thức ngữ vi, phân loại các hành vi tại lời thành nãm lớp lớn: Tường giải /
biểu hiện (representative), chi phối / điểu khiển (directive), cam kết (commissive), biểu
cảm (expressive), tuyên bố (declaration / declarative) [146],[157], Hành vi hỏi thuộc lớp
“chi phối” của Searle. ở phạm vi chúng ta quan tâm thì năm loại hành vi ngôn ngữ chủ
yếu trong sự liên quan đến việc phân chia các loại câu theo mục đích nói năng của ngữ
pháp truyền thống, thường được ghi nhận về mặt ngữ pháp một cách phân biệt và thường
xuyên nhất trong các ngôn ngữ của nhân loại. Theo T. Givón, các " nguyên mẫu / điển
dạng" hành vi ngôn ngữ (speech act prototypes) bao gồm: a. Tuyên bố (declarative); b.
Cầu khiến (imperative); c. Nghi vấn (interrogative). Thành phẩm của điển dạng nghi vấn
là: (i) câu hỏi có/khôn? (YeslNo q uestion); (ii) câu hỏi có đại từ nghi vấn (W h question).
Đê tiện cho việc phân tích đối chiếu, chúng tôi dựa vào cách phán loại của T. Givón. Dựa
vào hệ thốn 2 khái niệm cùa n 2 ữ pháp chức năng, hành vi ngón nsữ bước đẩu dươc phân
thành: - Tuyên bố (declarative); - Phi tuyên bố (non-declarative). Loai phi tuyén bố lại
22
được phân thành:
Cầu khiến (imperative); Nghi vấn (interrogative). Loại nghi vấn lại
phân thành: (i) Yes /N o q u estion; (ii) W h question.
1.1.3. Cơ sỏ lý thuyết của việc so sánh đôi chiểu hành vi ngônngữ theo
quan điểm ngữ dụng
1.1.3.1. So sánh lịch sử, so sánh loại hình và so sánh đối chiếu.
ở mức độ khái quát, việc so sánh đối chiếu giữa các ngôn ngữ thườngđược tiến hành trên
các lĩnh vực cơ bản khác nhau: (i) So sánh lịch sử (cội nguồn), nhằm thiết lập nên mối
quan hệ họ hàng giữa các ngón ngữ (có cùng nguồn gốc); (ii) So sánh loại hình, nhằm
thiết lập nên mối quan hệ có tính đồng hình (đẳng cấu) giữa các ngôn ngữ. Hai lĩnh vực
nghiên cứu này tạo thành hai chuyên ngành nghiên cứu khác nhau, với nhũng phương
pháp nghiên cứu riêng biệt; (iii) Ngôn ngữ học hiện đại, với những bước phát triển mới,
không chỉ dừng lại ờ những mức độ, mục đích nghiên cứu nói trên, không chỉ dừng lại ở
mức độ so sánh có tính chất kiểu loại về mặt ngữ pháp, mà đã và đang tiến hành những
công việc so sánh ở phạm vi chức năng ngữ nghĩa - ngữ dụng với các mục đích lý thuyết
và thực tiễn. Trong nhũng năm gần đây, việc so sánh đối chiếu các ngôn ngữ thường
hướng tới những úng dụng trong lĩnh vực dạy tiếng và trong lý thuyết dịch bằng cách xác
định những tương đồng và khác biệt ở các bình diện cấu trúc và hoạt động. Việc nghiên
cứu đề tài này nằm trong xu thế chung đó. Vị trí của đối chiếu miêu tả và đối chiếu đặc
trưng vì mục đích giảng dạy ngoại ngữ được thể hiện trong lược đồ (Nguồn: Nguyễn Văn
Chiến [13,23]) ở trang 31 sau đây.
1.1.3.2. Chức năng của ngôn ngữ.
Về mặt lý thuyết, xuất phát điểm quan trọng nhất ]à ở chỗ, ngôn ngữ là một hiện tượng xã
hội có tính phổ quát cho toàn thể nhân loại. Chức nâng của ngôn ngữ mang tính phổ quát.
Đó là cóng cụ tư duy, phương tiện giao tiếp của xã hội loài người. Nói cách khác, bản
chất "công cụ" của ngôn ngữ là phổ quát. Ngôn ngữ trước hết là một hệ thống ký hiệu ám
thanh. Nói đến kí hiệu là nói đến tính hai mặt, mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện. Điểu
này cũng mang tính phổ quát. Những mục đích cụ thể có tính phân loại cũns có tính phổ
quát (hỏi, cầu khiến, tườns thuật, cảm thán). Nói tóm lại, chức năng, phương tiện cũng
như các mục đích cụ thể khác nhau của ngôn ngữ là manc tính phổ quát. Đi vào tìm hiểu
nhũng nội dung cụ thê hơn, luôn có thể nhận thấy rằng, các ngón ngữ khác nhau cũng có
cách ứng xử với các hiện tượng được phản ánh cơ bản là giống nhau. Việc so sánh đối
chiếu giữa các ngôn ngữ cũng cho thấy chúng cùng chia sẻ các đặc trưng ngữ nghĩa giống
nhau ờ các hiện tượng cụ thể. Đấy cũng chính ]à cái đã khiến người ta gọi chúng là các
lớp tương ứng giao thoa ngôn ngữ học (cross - linguistic equivalence classes). Điều này
có nghĩa là, có ít nhất một sự tương ứng bộ phận về phương diện nghĩa giữa một hệ
thống ngôn ngữ này với một hệ thống ngôn ngữ khác và có một vài (lớp) tưong ứng dịch
thuật (translational equivalence). Nhũng điều vừa đề cập trên đây bàn về những phạm vi
rất cụ thể của một ngôn ngữ, như các đặc trưng ngữ nghĩa của một kiểu loạiđơn vị ngữ
pháp - ngữ nghĩa nào đó như thời hiện tại, dạng bị động của động từ, số nhiều của danh
từ. Thuật ngữ ý nghĩa (meaning) được sử dụng ở đây với nghĩa rộng, gồm cả ý nghĩa tình
thái - loại nghĩa thường được phân biệt như là nghĩa ngữ dụng. Mục đích của sự
nghiên cứu như vậy là hết sức rõ ràng về mặt lý thuyết. Các ngôn ngữ không chỉ giỏng
nhau về bản chất, chức năng, phương tiện mà ngay trong những phạm vi cụ thể, nơi mà
tính đặc thù có thể đứng ra tranh giành ngôi vị số một thì những sự tương ứng có tính phổ
quát cũng được bộc lộ ở những mức độ nhất định.
1.1.3.3. Tính đồng nhất của HVNN như là co sỏ lý thuyết của nghiên cứu đối chiếu
hành vi ngôn ngữ.
1.1.3.3.1. Tính chất "hành vi" của các phát ngôn, như đã nói, bắt nguồn từ chức năng công
cụ giao tiếp của ngôn ngữ. Các phát ngôn được tạo ra nhằm đạt được một hiệu quả nào đó.
Hiệu quả này là một phản ứng nào đó của người nghe. Cách thức sử dụng hành vi ngôn
ngữ có tính mục đích này là chung cho mọi ngôn ngữ, chung cho mọi quá trình giao tiếp
hiện thực, là tiền đề cho việc so sánh đối chiếu hành vi ngôn ngữ giữa các thứ tiếng.
1.1.3.3.2. Hành vi ngôn ngữ, trong mô hình "kích thích - phản ứng", mang tính đồng
nhất, bất kể việc chúng được xem xét ờ phương diện thông điệp (message) hay trao đổi
(exchange). Có thể phân biệt hành vi ngôn ngữ thành hai loại cơ bản: Loại có tính vật
dụng - dịch vụ (goods & service) và loại có tính thông tin (information). Ví dụ:
+ Loại có tính vật dụng và dịch vụ: 1a. Pass me the suit ! (Hãy chuyển hộ rói lọ muối);
ỉ b. Get out o f nix duy light! (Cút cho khuất m ắt lao).
+ Loại có tính thông tin: 2u. Is it Tuesday today? (Hỏm nay ìủ thứ ba ù?); 2b. When did
YOU last see your father? (Anil gặp bỏ anil lần cuối vào lúc nào?).
Với ví dụ (1), phản ứng của người nghe có thể không thành lời (non - verbal), mà là một
hành động, chẳng hạn như: Đối với la: chuyển lọ muối cho người nói; Đối với lb: bỏ đi.
Với ví dụ (2), phản ứng là các câu trả lời, chẳng hạn như: Đối với 2a: khẳng định / phủ
định (hôm nay là thứ ba); Đối với 2b: cung cấp thời điểm (gặp bố lần cuối). Như vậy có
thể thấy rõ rằng, hành vi ngôn ngữ với mô hình "kích thích - phản ứng", có chức năng,
mục đích, hiệu quả trong giao tiếp là đồng nhất trong các ngôn ngữ. Chính sự đồng nhất
về mặt cấu trúc, ngữ nghĩa, chức năng trong việc thực hiện các hành vi ngôn nsữ để giao
tiếp là tiền đề cơ sở thứ hai cho việc nghiên cứu đối chiếu.
1.1.3.3.3. Mỗi câu - phát ngôn đều được cấu thành từ hai bộ phận cơ bản: Nội dung mệnh
đề và nội dung tình thái. Nội dung tình thái là những thông tin về mục đích phát nsôn và
những thông tin phụ khác như các thông tin về người nói, người nghe, các thông tin có
tính đánh giá hay bằng chứng, các thông tin về khả năng, về trách nhiệm inà chủ yếu là
thông tin về thái độ của người nói.
Hai bộ phận nội dung cơ bản của hành vi ngôn ngữ như đã trình bày ờ trên là phổ quát
cho tất cả các hành vi ngôn ngữ trong các ngôn ngữ. Đây là tiền đề cơ sở thứ ba cho việc
nghiên cứu đối chiếu.
1.1.3.3.4. Giữa các ngôn ngữ khác nhau, hành vi ngôn ngữ mang tính đồng nhất vể bản
chất, chức năng, cơ cấu nội tại và điều kiện thích dung (felicity condition). Mỗi hành vi
ngôn ngữ đều đòi hỏi những điều kiện nhất định mới có thể thực hiện được. Muốn di xe
đạp thì phải có xe đạp, có thể cầm ghi đông để lái, có thể đạp được, có thể nhìn rõ đường,
có kỹ năng để đưa xe đi mà không mất thăng bằng và dù ở mức độ nào, thì ít nhất, cũng
phải biết cái xe đạp được dùng để làm gì, cách sử dụng ra sao. Điều kiện sử dụng hành vi
ngôn ngữ cũng vậy. Trước hết phải biết ngôn ngữ đó, biết cách sử dung nó, phải có đối
tượng để giao tiếp. Đối tượng cũng phải biết ngôn ngữ đó (có thẻ nghe, và hiểu được).
Chẳng hạn, muốn sử dụng một hành vi mệnh lệnh, người nói phải ờ vào vị thế có thể ra
lệnh được và người nghe cũng phải ở vào tư thế nhận lệnh. Nội dung của mệnh lệnh cũng
phải có khả năng thực hiện được. J. Austin gọi những điều kiện như vậy là những điểu
kiện thích dụng (felicity conditions), Đây là những điều kiện cần cho hành vi ngồn nsữ có
thể được thực hiện. Tất cả những cái đó là chung, là phổ biến cho toàn nhân loại, cho mọi
hành vi ngôn ngữ ỏ' bất kỳ ngôn ngữ nào.
1.1.3.3.5.
Nói như vậy không có nehĩa là mọi cái liên quan đến hành vi neón ngữ đều có
tính đổng nhất. Có rất nhiều nội dung ngữ dụns; liên quan đến hành vi ngón ngữ có sự
khác
biệt, thậm chí khác biệt rất lớn giữa các ngôn nsữ khác nhau. Sư khác biệt này,
thông thường, được thể hiện ỏ nôi dung tình thái của phát neón. Chi cán so sánh sơ lược
25
giữa tiếng Anh và tiếng Việt cũng có thể thấy rang tiếng Việt có một loạt các tiểu từ tình
thái với những ý nghĩa biểu cảm, cách sử dụng linh hoạt như: à, ư, nhỉ, nhé,... Từ "ạ"
chẳng hạn, thường dùng để nói với người có vị thế cao hơn, hoặc để bày tỏ tình cảm thân
mật, gần gũi. Ví du: ỉa . Chán chào ông a. (ss * ôtig chào cháu ạ!) 3b. M ục áo vào cho
ấm con ạ. "À" chủ yếu dùng để cấu tạo câu hỏi, có khi kèm theo ý ngạc nhiên. Ví dụ: 4.
M ui đ ũ đi rồi à ? Nhưng cũng có khi dùng trong câu tường thuật. Ví dụ:5. Chuyện lù như
vậy đó, anh à. "Ư ” cũng dùng để hỏi, có khi kèm theo ý suy tư, ngạc nhiên hay hoài
nghi: 6a. Anh muốn nói chuyện này ư ? ób.Châng lẽ sự đời lại phức tạp đến th ế ư ?
óc.Bắt đầu rồi ư ? Trong tiếng Anh, không có một yếu tố từ vựng nào tương ứng với
những tiểu từ này. Tuy vậy, sự khác biệt đó vẫn có thể chuyển dịch bằng những phương
tiện khác nhau ở một mức độ nào đó. Người ta có thể chuyển dịch các thức của tiếng
Latin sang tiếng Anh bầng cách sử dụng những phương thức biểu hiện khác với độ chính
xác cao, cũng như có thể chuyển dịch các câu hỏi tiếng Việt sang tiếng Anh mà không
gặp trở ngại lớn với các tiểu từ tình thái. Hai đối tượng hoàn toàn giống nhau mà đem ra
so sánh thì bản thân sự so sánh không có mấy giá trị, nếu không nói là một việc làm vô
nghĩa. So sánh đối chiếu là để tìm ra những nét tương đổng, những điểm khấc biệt. Tương
đồng hay khác biệt, vể mặt nguyên tắc, đểu có giá trị như nhau đối với bất kỳ sự so sánh
nào. Tuy nhiên, ở đây có vấn để của tương quan so sánh do mục đích đối chiếu quy định.
Khi sự tương đổng có tính phổ biến thì những sự khác biệt thường được chú ý, đánh giá
cao hơn về mặt giá trị và ngược lại. Trong ngôn ngữ học,
sự so sánh đối chiếu cũng
không có gì xa lạ với những điều đã nói ở trên. Mặc dù, trong một số trưcmg hợp cụ thể
nào đó, những nét khác biệt lại tỏ ra có nhiều giá trị "thông tin" hon.
Trên đây là một phần trong những nội dung liên quan đến cơ sở lý thuyết của việc so sánh
đối chiếu các hành vi ngôn ngữ về mặt ngữ dụng. Để kết thúc phần này, chúng tôi xin
trích dẫn một số ý kiến của F. Palmer đã trình bày trong công trình "Thức và tình thái"một công trình khảo cứu sâu rộng về nội dung có tính ngữ dụng ở hàng loạt ngôn ngữ
khác nhau rất xa về loại hình cũng như địa bàn hành chức. Công trình này có thẻ đưọc coi
là mẫu mực trong việc so sánh đối chiếu về một phạm vi nội dung thuộc vào loại quan
trọng nhất của ngữ dụng học: tình thái ở các ngôn ngữ đã được điều tra trên thé giới.
Những ý kiến này được chúns tỏi xem như là những lời chỉ dẫn, biện hộ cho cống việc
nghiên cứu đang được thực hiện trong luận án này: “Nhưng với tư cách là một cơ sơ lý
luận chuns, dường như có lý để giả định rằng những chức năng cơ bản của ngón ngữ là rất
26
giống nhau trong những xã hội khác nhau, cho dù có những tập quán ngôn ngữ khác nhau
ờ khắp nơi trên thế giới, bời vì tất cả mọi người đều có nhu cầu giống nhau. Thực sự đã
có bằng chứng cho thấy rằng các ngôn ngữ khác nhau đểu có mổt bộ phận giống nhau. Dĩ
nhiên, Sapir (1929) và Whorf (1940) cũng đã nêu lên quan điểm đối lập. Họ lập luận rằng
ngôn ngữ quy định bản chất "thế giới" của mỗi xã hội, và vì vậy những sự khác nhau vể
ngôn ngữ ngụ ý những "thế giới" khác nhau. Tuy nhiên, cho dù điều đó có thật ờ một mức
độ nào đó, thì cái sự thật mà chúng ta có thể học các ngổn ngữ khác nhiều so với tiếng mẹ
dẻ và có thể địch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác với một mức độ chính xác khá cao
đã khiến người ta nghĩ rằng giữa các ngôn ngữ khác nhau có rất nhiều cái chung, rằng
chúng ta có thể đồng nhất hoá ngữ nghĩa qua các ngôn ngữ và rằng chúng ta có thể đặt
vấn đề về việc các ngôn ngữ khác nhau đã ứng xử như thế nào với cùng một hiện tượng"
[138],
1.2. BÌNH DIỆN NGỮ NGHĨA - NGỮ DỤNG CỦA VIỆC s o SÁNH
ĐỐI CHIẾU HÀNH VI NGÔN NGỮ HỎI.
1.2.1. Mối quan hệ giữa hỏi và trả lòi.
Trước hết, cần phải nói rằng, trọng tâm nghiên cứu của chuyên khảo là tập trung vào hành
vi hỏi. Nhưng, công việc này khó có thể dược thưc hiện tốt nếu không đặt nó vào trong
mối quan hệ thường trực với hành vi trả lời, vì hỏi và trả lời luôn gắn bó với nhau một
cách chặt chẽ trong hoạt động giao tiếp đối thoại. Tiến sĩ Lê Đòng, trong công trình của
mình [31], đã trình bày một cách hệ thống và biện chứng mối quan hệ giữa hỏi và trả lời /
đáp. Mối quan hệ này có thể được hình dung như sau: Hỏi chính danh muốn lấy trả lời
làm hiệu quả của hành vi, làm lý do để tồn tại. Không mấy ai đưa ra câu hỏi nếu như biết
chắc là sẽ không nhận được câu trả lời, đáp hoặc các tín hiệu phản hồi (feedback). Trả lời
xuất hiện là do hỏi. Nội dung của trả lời là phần còn chưa rõ nên bị bỏ trống ờ hỏi. Nói
tóm lại, hỏi và trả lời giả định sự tồn tại cho nhau vì hỏi là phương thức tìm kiếm kiến
thức, còn trả lời là phương thức cung cấp kiến thức. Hỏi thường nắm vai trò chủ động hơn
trong hoạt động giao tiếp. Bên trong mối quan hệ này chứa dưng rất nhiéu vấn đề liên
quan đến quy tắc tổ chức câu hỏi và câu trả lời hay nói cách khác là quy tắc tổ chức liên
kết đối thoại: hỏi cái gì thì trả lời cái ấy,... Mối quan hệ này cũng chứa đựng những kiểu
tương tác ngữ nghĩa - ngữ dụng hết sức đa dạng, có tính đặc trưnq cho các hành vi giao
tiếp. Hỏi và trả lời là các hành vi thể hiện rõ nhất mối quan hệ giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Bởi lẽ, các hành vi ngôn ngữ khác như mệnh lệnh, cam kết, khẳng định, biểu cảm thườns
không đòi hỏi một "phản ứng” bằng lời . Có thể nói rằng, ngoài hỏi và trả lời, người ta
khó có thể tìm ờ các loại hành vi ngôn ngữ khác sự tương tác chặt chẽ về phương diện ngữ
nghĩa - ngữ dụng như vậy. Do đó, nghiên cứu hành vi hỏi trong mối tương quan có tính
thường trực với hành vi trả lời là một điểu hết sức cần thiết. Bằng cách đó, có thể phát
hiện, phân tích một cách đầy đủ các đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ dung liên quan đến hành
vi hỏi.
1.2.2. Vai trò của ngưòi hỏi và hành vi hỏi.
Khi hỏi, người hỏi đảm nhiệm vai trò của người tìm kiếm thông tin và yêu cầu người nghe
đảm nhiệm vai trò là người cung cấp thông tin đã được yêu cầu. Xét trong tương quan đó,
hành vi hỏi có thế được xem là cùng một lúc đảm nhiệm một số vai trò sau đáy: (i) Hiện
thực hoá nhu cầu tìm kiếm thông tin của người hỏi; (ii) Hiển thị các vai tạm thời do người
hỏi và người nghe đảm nhiệm; (iii) Khu trú phạm vi thông tin cần tìm kiếm - cần giải đáp.
Thuật ngữ “khu trú” ở đây được sử dụng với nghĩa: Phát ngôn hỏi, bằng việc xử lý các sự
kiện ngôn ngữ trong tương quan với ngữ cảnh, giúp cho người được hỏi thông qua hành
vi này có thể xác định một cách chính xác thông tin mà người hỏi đang tìm kiếm. Hay
nói cách khác, câu hỏi, bằng một cách thức nào đó, giúp người nghe xác định được trọng
tâm thông báo của câu hỏi. Điểu này liên quan đến cách thức tổ chức câu hỏi. Ân dấu
trong hành vi hỏi, cũng giống như các loại hành vi ngôn ngữ khác, là hàng loạt thông tin
ngữ nghĩa - ngữ dụng về người hỏi, ngữ cảnh, người tiếp nhận, mối quan hệ tương tác giữa
người hỏi và người nghe. Trong đó, phần thông tin quan trọng là thông tin tình thái. Vì
tính chất quan yếu của tình thái đối với câu hỏi, chúng tồi sẽ trình bày thêm những nội
dung tình thái thường được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của các tác giả
khác nhau.
1.2.3. Một sô' nội dung, quan điểm liên quan đến vấn đế tình thái.
1.2.3.1. o . J e s p e rs e n (1949) nhận xét vể các thức tườna giải / trực thuyết, giả định và
cầu khiến trong cuốn “ ,4 M odern English Grammar 01) Historical Prim iph'S I - IV.
London and Copenhagen” như sau: "Chúng biểu thị những thái dó nhất định cua người
nói hướng về nội dune của câu, dù rằng, trong một số trường họp, sự lua chon thức dược
quyết định không phải bời thái độ cùa người nói mà bời đặc điểm cùa bản thán mệnh dẻ
Ovà mối quan hệ của nó với chuỗi (mệnh đề) liên hệ chính mà nó lệ thuộc vào” [Dẫn theo
28