Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 105 trang )
2.3.1 Một số công trình nghiên cứu trên thế giới
2.3.1.1 Công trình nghiên cứu của Sherry C. et al.
Sherry C. et al. (2004) đã thực hiện nghiên cứu đo lường kỳ vọng và cảm nhận
của sinh viên trong nước và nước ngoài về Học viên công nghệ UNITEC. Auckland,
New Zealand
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng và định tính với thang đo SERVQUAL 5 nhân tố gồm 20 biến quan sát.
Kết quả cho thấy thang đo đạt độ tin cậy; các khoảng cách giữa cảm nhận và kỳ
vọng của 5 nhân tố đều âm và có ý nghĩa thống kê, điều này có nghĩa là UNITEC còn
nhiều việc phải làm để nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo. Trong khi chất lượng kỳ
vọng của sinh viên trong nước và bản xứ khác nhau không đáng kể, thì chất lượng cảm
nhận của sinh viên nước ngoài thấp hơn rất nhiều. Do đó, sinh viên nước ngoài có
khoảng cách cảm nhận - kỳ vọng lớn hơn, trong đó, khoảng cách đáng kể nhất là thuộc
về các nhân tố cảm thông, năng lực phục vụ và khả năng đáp ứng.
2.3.1.2 Công trình nghiên cứu của Sinpes và N.Thomson
Sinpes và N.Thomson (1999) với đề tài nghiên cứu tìm hiểu các nhân tố tác động
đến chất lượng cảm nhận của sinh viên trong giáo dục đại học.
Với mục tiêu nghiên cứu trên tác giả đã nghiên cứu điều tra sinh viên của 6
trường đại học ở 3 bang của Hoa kỳ.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy 5 thành phần ban đầu của thang đo
SERVQUAL chỉ còn lại 3 thành phần có đủ độ tin cậy và giá trị phân biệt đó là: sự
cảm thông, năng lực đáp ứng, phương tiện hữu hình. Sự cảm thông và quan tâm của giảng
viên đối với sinh viên là yếu tố quan trọng nhất cho sự đánh giá chất lượng dịch vụ.
2.3.2 Một số công trình nghiên cứu trong nước
2.3.2.1 Công trình nghiên cứu của Lưu Thiên Tú
Lưu Thiên Tú (2009) đã trình bày luận văn thạc sĩ với đề tài: “Mối quan hệ giữa
chất lượng dịch vụ đào tạo được cảm nhận và sự hài lòng của sinh viên Trường Đại
học Sài Gòn”
Với mục tiêu nghiên cứu tác giả sử dụng thang đo SERVPERF và phương pháp
nghiên cứu định lượng định tính để đo lường chất lượng đào tạo và biến phụ thuộc là
17
sự hài lòng của sinh viên. Sinh viên thể hiện mức độ hài lòng của mình theo thang bậc
5 với 1là “hoàn toàn không đồng ý” đến 5 là “Hoàn toàn đồng ý”.
Kết quả nghiên cứu với 518 mẫu khảo sát cho thấy có 3 nhân tố ảnh hưởng đến
sự hài lòng của sinh viên thay đổi so với thang đo SERVPERF lúc đầu là môi trường
giảng dạy, sự đáp ứng và sự tin cậy. Về mức độ hài lòng, sinh viên tạm hài lòng về
môi trường giảng dạy (3,4377), mức độ tin cậy (3,5907), mức độ đáp ứng (3,3402) mà
STU mang lại trong các hoạt động liên quan đến quá trình học tập ; nhìn chung, sinh
viên tạm hài lòng khi nhận được dịch vụ giáo dục của STU với hài lòng chung là
(3,3668). Sau khi phân tích hồi qui đa biến, chỉ còn lại 2 yếu tố có mức tác động theo
thứ tự là môi trường giảng dạy (Beta = 0,578) và Sự đáp ứng (Beta = 0,171), các thành
phần khác không còn có tác động nữa. Đồng thời, có sự cảm nhận khác nhau về nhân
tố môi trường giảng dạy giữa sinh viên hai khoa Kỹ thuật công trình và Điện tử viễn
thông; và mức độ hài lòng của sinh viên khoa Kỹ thuật công trình và khoa cơ khí cũng
khác nhau. Hạn chế của nghiên cứu là: chỉ đo lường một đối tượng là sinh viên chính
quy tại trường STU nên tính đại diện chưa cao; nghiên cứu trong thời gian ngắn nên có
thể kết quả còn có thể thay đổi nhiều.
2.3.2.2 Công trình nghiên cứu của Bùi Thị Kim Dung
Bùi Thị Kim Dung (2010) đã có bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của chất lượng
dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên khoa kinh tế - Quản trị kinh doanh đại
học Đà Lạt”.
Mô hình nghiên cứu ban đầu dựa trên mô hình chất lượng dịch vụ của
Parasuraman, 1988 và thêm 1 nhân tố từ mô hình chất lượng dịch vụ của Gi-Du của
Kang và Jeffrey James, 2004. Mô hình này gồm có 6 nhân tố tác động đến sự hài lòng:
Tin cậy, Đáp ứng, Bảo đảm, Cảm thông, Hữu hình và Hình ảnh. Sinh viên thể hiện
mức độ hài lòng của mình theo thang đo likert với 1 là “Hoàn toàn không đồng ý” đến
5 là “Hoàn toàn đồng ý”. Mô hình sau khi hiệu chỉnh gồm các nhân tố: Tin cậy; Đảm
bảo và đáp ứng; Cảm thông; Hữu hình; Hình ảnh ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh
viên. Nghiên cứu được thực hiện trên 338 sinh viên khóa 31 hệ chính quy và hệ tại
chức đang theo học tại Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh của Trường Đại học Đà
Lạt.
18
Kết quả phân tích hồi qui đa biến cho thấy sự hài lòng của sinh viên phụ thuộc
vào các nhân tố: Đảm bảo và đáp ứng; Cảm thông; Hữu hình;Hình ảnh.
Nhìn chung, sinh viên tạm hài lòng với chất lượng dịch vụ đào tạo: Đảm bảo và
đáp ứng (3,1399); Cảm thông (2,8437); Hữu hình (3,4243);Hình ảnh (3,5785); Hài
lòng chung (3,4786). Hữu hình tác động mạnh nhất đến sự hài lòng của sinh viên (Beta
=0,277); kế đến là Đảm bảo và đáp ứng (Beta = 0,263); Hình ảnh (Beta =0,204) và
cuối cùng là Cảm thông (Beta = 0,118). Kết quả phân tích cũng cho thấy có sự khác
nhau về hài lòng theo giới tính (Nam hài lòng nhiều hơn nữ); nhưng theo hộ khẩu
thường trú, theo ngành đào tạo và theo loại hình đào tạo thì có mức độ hài lòng như
nhau. Nghiên cứu này cũng trình bày một số hạn chế như sau: nghiên cứu chỉ thực
hiện ở Khoa Kinh Tế - Quản trị kinh doanh trường ĐH Đà Lạt và chỉ tập trung vào
sinh viên năm cuối của Khoa nên mức độ đại diện cho tổng thể là chưa cao.
2.4 Mô hình nghiên cứu và các giả thiết nghiên cứu
2.4.1 Mô hình nghiên cứu
Qua phân tích ở trên, có nhiều mô hình nghiên cứu về chất lượng dịch vụ nói
chung, cũng như chất lượng dịch vụ đào tạo nói riêng. Trong bài nghiên cứu này, tác
giả quyết định sử dụng mô hình HEdPERF điều chỉnh để đo lường sự hài lòng của
sinh viên về chất lượng dịch vụ đào tạo vì các lý do:
(1) Khi so sánh mô hình SERVPERF với mô hình SERVQUAL, các nhà nghiên
cứu nhận định rằng, SERVPERF tốt hơn SERVQUAL trong việc đánh giá chất lượng
dịch vụ (Cornin and Taylor, 1992; Parasuraman et al., 1994; Quester et al., 1995;
Llusar and Zornoza, 2000 trích trong Firdaus, 2005). Trong lĩnh vực đánh giá chất
lượng dịch vụ trong giáo dục đại học, Brochado (2009) cho rằng SERVPERF và
HEdPERF là hai mô hình tốt nhất khi ông so sánh 5 mô hình SERVQUAL,
Importance-weighted SERVQUAL, SERVPERF, Importance-weighted
(2) SERVPERF và HEdPERF- nghiên cứu được thực hiện trên 360 sinh viên ở
ĐH Portuguese tại Lisbon. Tuy nhiên, Firdaus (2006) cho rằng SERVPERF có thể
không phải là một công cụ hoàn toàn thích hợp để đánh giá chất lượng cảm nhận trong
lĩnh vực giáo dục. Ông nhận định rằng mô hình HEdPERF tốt hơn mô hình
SERVPERF khi đánh giá chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đại học.
19
(3) HEdPERF là mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ dành cho lĩnh vực giáo
dục đại học.
(4) Các nghiên cứu trước đây (ở mục 2.3) đều có những hạn chế nhất định như
tính đại diện chưa cao, qui mô mẫu mới chỉ đạt giới hạn dưới, tức qui mô mẫu vừa đủ
để sử dụng phân tích dữ liệu nên tác giả sử dụng mô hình đã điều chỉnh của các nghiên
cứu này.
(5) Mô hình nghiên cứu của đề tài được hình thành và trình bày ở hình 2.2. Với
mô hình này, mức độ hài lòng của sinh viên hiện đang học hệ chính quy tại CBV được
đo lường thông qua chất lượng dịch vụ đào tạo của trường.
Phương diện phi học
thuật
Phương diện học thuật
H1 (+)
H2 (+)
Sự hài lòng
của sinh
viên về chất
lượng dịch
vụ đào tạo
tại CBV
H3
Danh tiếng
H4 (+)
Tiếp cận
H5 (+)
Các vấn đề về chương
trình
Hình 2.2:Mô hình nghiên cứu đề xuất để đo lường sự hài lòng của sinh viên về chất
lượng dịch vụ đào tạo của CBV
Nguồn: qua khảo sát và nghiên cứu sơ bộ của tác giả, 2014
- Phương diện phi học thuật: đề cập đến nhiệm vụ của nhân viên CBV, hỗ trợ
sinh viên hoàn thành nghĩa vụ học tập.
- Phương diện học thuật: Đề cập đến trách nhiệm của đội ngũ giảng viên CBV.
- Danh tiếng: nói lên tầm quan trọng của việc xây dựng hình ảnh chuyên nghiệp
của CBV
- Tiếp cận: đề cập đến những vấn đề như khả năng tiếp cận, dễ liên lạc, tính sẵn
sàng và thuận tiện cho sinh viên.
20