Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.94 KB, 117 trang )
hoạt động ngữ pháp của từ trong câu cụ thể, ta có thể xác định được đặc điểm
ý nghĩa ngữ pháp của từ. [8, tr.198]
Khi kết hợp các từ với nhau để tạo nên cụm từ và câu thì giữa chúng
hình thành các mối quan hệ ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp. Vì vậy, khi kết hợp
các từ lại với nhau ta cần thiết lập được quan hệ ý nghĩa hợp lý và quan hệ
ngữ pháp chuẩn của tiếng Việt. [8 , tr.192]
Muốn kết hợp được với nhau, các từ cần phải có sự tương hợp về ý
nghĩa. Sự tương hợp này có thể ở mức độ rất chặt chẽ, lúc đó gần như mỗi từ
chỉ có khả năng kết hợp với một từ duy nhất trong vốn từ vựng chung của
ngôn ngữ. Nếu kết hợp với các từ khác thì giữa chúng không thể hình thành
quan hệ ý nghĩa hoặc quan hệ ý nghĩa không thể chấp nhận được về mặt logic.
Tức là có những từ sử dụng được cho đối tượng này nhưng không thể sử dụng
cho đối tượng khác.
Chẳng hạn: Từ “cười” chỉ có thể kết hợp phía sau từ “miệng” mà không
thể kết hợp với các bộ phận khác trên cơ thể người như: mắt, mũi, tai, tay,
chân…và từ “cườ”i cũng không thể kết hợp với các từ chỉ sự vật khác như:
chó, mèo, xe, bút, sách…
Những từ có khả năng kết hợp hạn chế như vậy là những từ có nghĩa rất
cụ thể, xác định. Nghĩa của từ càng cụ thể, càng xác định thì sự kết hợp với
các từ khác càng hạn chế. Lý giải cho hiện tượng này, Đỗ Việt Hùng cho rằng
chính đặc trưng vị trí của nét nghĩa được hiện thực hoá đã quy định hoạt động
ngữ pháp của từ.
Ví dụ:
Sủa: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của chó)
Hót: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của chim)
Hí: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của ngựa)
13
Qua ví dụ trên ta thấy chính nét nghĩa cuối cùng đã quy định sự kết hợp
của các từ đang nói đến với những từ khác. Đó là lý do giải thích tại sao từ
“sủa , hót” và “hí” không thể kết hợp với bất kỳ từ nào mà cần phải kết hợp
một cách hợp lý và chính xác.
Ở đây chúng tôi không kể đến trường hợp cách kết hợp từ của các tác giả
trong các tác phẩm văn chương hay cách kết hợp từ có chủ ý trong giao tiếp
hàng ngày. Ví dụ như:
Hắn sủa lên mấy tiếng rồi phóng xe đi
Vợ tôi hót cả ngày…
Sự tương hợp về ngữ nghĩa giữa các từ dựa trên mối quan hệ giữa các sự
vật, các đối tượng hay hoạt động, trạng thái, tính chất mà từ gọi tên. Cho nên
khi các từ kết hợp với nhau không phản ánh đúng mối quan hệ thì sự kết hợp
đó là sai và không thể chấp nhận.
Ví dụ:
Trung Quốc hiên ngang đặt giàn khoan Hải Dương 981 lên vùng lãnh
thổ đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Sở dĩ sự kết hợp trên là không thể chấp nhận vì theo Từ điển tiếng Việt
do Hoàng Phê chủ biên thì hiên ngang có nghĩa là: đường hoàng, tự tin, không
chịu cúi đầu khuất phục trước những sự đe doạ. Mặt khác, với nội dung của
câu, việc dùng từ hiên ngang cho Trung Quốc là hoàn toàn không hợp lý.
Trong trường hợp này, cần thay từ “hiên ngang” bằng từ “ngang nhiên” thì
mới phản ánh đúng, khách quan vấn đề.
Với sự phân tích trên, có thể khẳng định rằng sự kết hợp từ có quan hệ
chặt chẽ với sự lựa chọn từ: nếu lựa chọn từ đúng thì sự kết hợp từ được chấp
nhận, nếu chọn không đúng thì kết hợp sai. Tuy nhiên từ trong ngôn ngữ có
thể có nhiều nghĩa, và nghĩa của từ còn có sự chuyển hoá ngay trong quá trình
giao tiếp. Như chúng ta đã khẳng định nghĩa của từ luôn được xét ở hai trạng
14
thái là từ ở trạng thái tĩnh (bình diện hệ thống) và từ ở trạng thái động (hoạt
động). Do đó, có nhiều trường hợp nếu xét theo nghĩa gốc và tách rời khỏi
hoàn cảnh giao tiếp thì sự kết hợp từ đó là sai. Nhưng nếu xét theo nghĩa
chuyển hoá hay đặt trong hoàn cảnh diễn ra giao tiếp thì sự kết hợp đó là có
thể chấp nhận được.
Ví dụ:
Anh ấy tốn bao nhiêu tiền để chạy việc mà vẫn không được
Cậu cưa cô ấy lâu thế mà cô ấy không đổ à?
Nếu chỉ xét nghĩa của từ chạy và cưa ở trạng thái tĩnh thì ta có các định
nghĩa sau:
Chạy: (hoạt động) (người hoặc động vật) (di chuyển thân thể bằng
những bước nhanh)
Cƣa (1): (dụng cụ) (dùng để xẻ, cắt gỗ, kim loại và vật liệu cứng khác)
(lưỡi bằng thép mỏng, có nhiều răng sắc nhọn)
Cƣa (2): (hoạt động) (tác động vào sự vật) (chia sự vật thành nhiều phần)
Dựa vào nghĩa của từ ở trạng thái tĩnh thì sự kết hợp trên hoàn toàn
không thể chấp nhận được. Nhưng khi xét từ ở bình diện hoạt động, tức từ
trong quá trình sử dụng và chuyển nghĩa thì ta thấy các trường hợp trên
nghiễm nhiên được cộng đồng chấp nhận.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng: Sự kết hợp giữa các từ là
dựa trên cơ sở sự tương hợp về nghĩa của các từ và trên cơ sở mối quan hệ
trong thực tế giữa các đối tượng, hoạt động, tính chất…mà từ biểu thị. Do đó,
muốn kết hợp đúng cần có sự lựa chọn các từ thích hợp. Đồng thời, một sự
kết hợp đúng còn phụ thuộc vào sự hiện thực hoá nghĩa của từ (nghĩa nào
trong số các nghĩa của từ nhiều nghĩa được hiện thực hoá trong hoạt động
giao tiếp) và sự chuyển hoá nghĩa của từ (nghĩa chuyển hoá có thể thích hợp
với sự kết hợp mà nghĩa gốc lại không thích hợp)
15
1.4 Nét nghĩa
Vì nét nghĩa không được thể hiện ra bằng vỏ vật chất của từ, chúng được
phân xuất một cách gián tiếp trên cơ sở đối chiếu nghĩa của các từ khác nhau
nên quan niệm về nét nghĩa và cách xác định nét nghĩa chưa có sự thống nhất
giữa các nhà nghiên cứu.
V.G. Gak cho rằng: “Mỗi nét nghĩa là một sự thể hiện trong nhận thức
người bản ngữ những đặc điểm khác nhau tồn tại khách quan cho sự vật hoặc
được môi trường ngôn ngữ gán cho nó, và do đó, nó là khách quan với người
dùng”. Tuy nhiên, sự vật tồn tại với nhiều đặc điểm khác nhau. Vậy, đặc điểm
nào là nét nghĩa, đặc điểm nào không phải là nét nghĩa? Chẳng hạn tính chất
chuyển hoá thành hơi của nước ở một nhiệt độ nhất định có phải là nét nghĩa
của từ nước hay không? Định nghĩa về nét nghĩa của V.G. Gak khó có thể trả
lời được những câu hỏi như vậy.
Khi bàn về nét nghĩa, Hoàng Phê cho rằng nét nghĩa là những yếu tố ngữ
nghĩa chung cho nghĩa của các từ thuộc cùng một nhóm từ hoặc riêng cho
nghĩa của một từ, đối lập với nghĩa của những từ khác trong cùng một nhóm.
Nét nghĩa được diễn đạt bằng từ (hoặc tổ hợp từ). Bản thân mỗi nét nghĩa lại
cũng có thể coi như là nghĩa và cũng có thể phân tích thành những nét nghĩa.
Sự phân tích có thể tiếp tục cho đến khi đạt đến những yếu tố ngữ nghĩa cơ
bản, không còn có thể phân tích được nữa (gọi là những nghĩa vị). Tuy nhiên
tác giả cũng lưu ý rằng: Đó là nói trên lý thuyết chứ trong thực tế, sự phân
tích này vô cùng khó khăn, phức tạp.
Đỗ Hữu Châu trong các công trình nghiên cứu về từ vựng – ngữ nghĩa
tiếng Việt cho rằng: “Chỉ những thuộc tính nào tạo nên sự đồng nhất và đối lập
về mặt ngữ nghĩa giữa các từ thì thuộc tính đó mới trở thành nét nghĩa trong cấu
trúc nghĩa biểu niệm. Do đó, để phát hiện ra nét nghĩa, cần phải tìm ra những nét
nghĩa chung, đồng nhất trong nhiều từ rồi lại đối lập những từ có nét nghĩa
16
chung đó với nhau để tìm ra những nét nghĩa cụ thể hơn, cứ như vậy cho đến khi
chúng ta gặp những nét nghĩa chỉ có riêng trong một từ”. [2, tr. 117]
Quan niệm của Đỗ Hữu Châu rõ hơn so với quan niệm của V. G. Gak.
Nhờ đó, chúng ta có thể dễ dàng tìm được những nét nghĩa của từ.
Theo Đỗ Việt Hùng, ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp. Một trong
những đặc điểm thể hiện sự phức tạp của ngôn ngữ là tính phân đoạn hai bậc.
Kết quả phân đoạn ở bậc một cho các đơn vị có tính hai mặt (vừa có mặt hình
thức, vừa có mặt nội dung), phân đoạn tiếp theo ở bậc hai cho kết quả là các
đơn vị một mặt (hoặc chỉ có mặt hình thức, hoặc chỉ có mặt nội dung).
Từ quan niệm của Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt Hùng đã so sánh các nét nghĩa
trong cấu trúc nghĩa của một từ với mô hình phân loại nghĩa từ vựng trong
một ngôn ngữ theo chủ đề và đi đến định nghĩa về nét nghĩa. Theo đó, giữa
cấu trúc các nét nghĩa trong một từ và mô hình phân loại từ vựng thành các
nhóm từ vựng – ngữ nghĩa có một sự tương ứng rõ rệt.
Để một từ có thể thuộc một nhóm nào đó, nó phải có đặc điểm mà dựa
vào đó, ta có thể xếp nó vào nhóm đó. Đặc điểm này chính là nét nghĩa trong
cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ.
Như vậy, nét nghĩa có thể được định nghĩa là những phần nghĩa thể hiện
thuộc tính sự vật mà từ biểu thị, dựa vào đó mà từ có thể thuộc vào một trong
các nhóm từ vựng – ngữ nghĩa được phân chia theo chủ đề.
Theo đó, từ lưu giữ trong nghĩa của mình những thông tin về các nhóm
từ vựng – ngữ nghĩa ở các cấp độ khác nhau mà nó thuộc vào. Trong đó,
thông tin về mỗi nhóm là một nét nghĩa. Lý tưởng nhất là số lượng nét nghĩa
trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của một từ bằng đúng số nhóm từ vựng – ngữ
nghĩa mà nó thuộc vào [13 ,tr. 66]. Mỗi nét nghĩa sẽ phản ánh một đặc trưng
nhất định của sự vật, hiện tượng trong thế giới được gọi tên và đồng thời mỗi
17
nét nghĩa luôn chiếm một vị trí nhất định trong cấu trúc lời giải nghĩa. Theo
đó, nét nghĩa sẽ có hai đặc trưng là đặc trưng bản chất và đặc trưng vị trí.
Chẳng hạn khi xét từ “máy bay”, ta sẽ có định nghĩa như sau:
Máy bay là phương tiện vận tải hay chiến đấu, bay trên không nhờ động cơ.
Với định nghĩa trên ta thấy một số tính chất, đặc điểm của máy bay được
phân biệt so với các sự vật khác. Ta có thể thấy rõ đặc trưng này khi so sánh
với định nghĩa “xe đạp” như sau:
Xe đạp là xe người đi, có hai hoặc ba bánh, tay lái nối với bánh trước,
dùng sức người đạp cho quay bánh (hoặc hai bánh) sau.
Ngoài đặc trưng bản chất, nét nghĩa còn có đặc trưng vị trí. Mỗi nét
nghĩa phải chiếm một vị trí xác định trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ.
Trật tự của các nét nghĩa thay đổi có thể làm thay đổi nghĩa của từ. Vị trí của
nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu niệm quy định giá trị, tính chất của nét
nghĩa. Nét nghĩa càng cao thì giá trị hệ thống càng lớn, nét nghĩa càng thấp
thì giá trị chức năng càng cao.
1.5 Trƣờng nghĩa
1.5.1 Một số quan niệm về trường nghĩa
Theo “Nhập môn ngôn ngữ học”, từ vựng là tập hợp các từ và đơn vị
tương đương với từ của một ngôn ngữ. Song, từ vựng không phải là một tập
hợp ngẫu nhiên các đơn vị này. Từ vựng là một hệ thống. Do đó, giữa các đơn
vị của hệ thống từ vựng tồn tại những mối quan hệ nhất định. Một trong
những mối quan hệ cơ bản giữa các đơn vị từ vựng là quan hệ về nghĩa. Các
đơn vị từ vựng đồng nhất với nhau về nghĩa tập hợp thành trường nghĩa.
Hoạt động giao tiếp của con người gồm hai quá trình cơ bản là quá trình
tạo lập (sản sinh) và quá trình tiếp nhận (lĩnh hội) diễn ngôn. Để tạp lập diễn
ngôn, người giao tiếp phải biết huy động vốn từ ngữ có liên quan đến hiện
thực được nói tới, trên cơ sở đó, lựa chọn các từ ngữ phản ánh chính xác nhất
18
nội dung cần diễn đạt. Qúa trình huy động từ ngữ để tạo lập diễn ngôn chính
là quá trình xác lập trường nghĩa.
Trong cuốn “Ngữ nghĩa học từ bình diện hệ thống đến hoạt động”, Đỗ
Việt Hùng đã trình bày rõ các quan niệm khác nhau của các nhà Ngôn ngữ
học nước ngoài và trong nước.
Ju. X. Xtepanov là một trong những tác giả người Nga quan tâm đến mối
quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong từ vựng. Ông cho rằng trong vốn từ
của một ngôn ngữ có các kiểu nhóm từ có quan hệ chặt lỏng khác nhau, như
loạt đồng nghĩa, loạt trái nghĩa; các nhóm nội dung như nhóm từ tính cách,
nhóm các động từ chuyển động của người…là biểu hiện của một hiện tượng
gọi là trường từ vựng hay trường ngữ nghĩa.
Tuy nhiên, bản thân hiện tượng được gọi là trường như vậy có cách hiểu
khá rộng, tuỳ mỗi tác giả, tuỳ mỗi quan điểm nghiên cứu mà có thể có những
cách xác lập các trường từ vựng khác nhau.
Nhà bác học người Nga M.M. Pokrovxki cho rằng: “Từ và ý nghĩa của
chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng của
chúng ta và độc lập với ý thức của chúng ta thành những nhóm nhất định. Cơ
sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất và trái ngược trực tiếp với
chúng về nghĩa”. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các từ như vậy
hoặc giống nhau, hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa và trong
lịch sử của chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết rằng những
từ này được dùng trong tổ hợp cú pháp giống nhau [Đỗ Hữu Châu (1998), cơ
sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD, tr. 243]. Đây là quan niệm vào loại sớm
nhất về trường từ vựng – ngữ nghĩa được nghiên cứu những năm 20 của thế
kỷ XX, bắt nguồn từ những lý thuyết ngôn ngữ học của W. Humboldt và F.
De. Saussure. Sau đó các nhà nghiên cứu khác như G. Ipsen (1924), A. Jolle
19
(1934), W. Porzig (1934)… và đặc biệt là J. Trier (1934) được coi là người đã
mở ra một giai đoạn trong lịch sử ngữ nghĩa học.
J. Trier là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ trường vào ngôn ngữ học.
Song, bản thân Trier không dùng khái niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới
trường khái niệm và trường từ vựng. Theo J. Trier, trường khái niệm là một
hệ thống rộng gồm những khái niệm có quan hệ với nhau, được tổ chức lại
xung quanh một khái niệm trung tâm. Mỗi trường khái niệm được các từ phủ
lên trên, mỗi từ tương ứng với một khái niệm. Ông cho rằng: “Trong ngôn
ngữ, mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị của nó là do quan hệ với các từ
khác trong trường quyết định, rằng trường là những hiện thực ngôn ngữ nằm
giữa từ (riêng lẻ) với toàn bộ từ vựng, trường quan hệ với toàn bộ từ vựng
cũng như quan hệ với trường của mình”. Mặc dù còn có những điểm cần
tranh luận như vấn đề phân biệt giữa ý nghĩa của từ với khái niệm nhưng
những đề xuất của J. Trier thực sự là nền móng quan trọng cho những nghiên
cứu về trường từ vựng – ngữ nghĩa sau này.
L. Weisgerber là một tác giả quan tâm nhiều đến mối quan hệ trường
nghĩa giữa các đơn vị từ vựng. Theo ông, cần phải tính đến các góc nhìn khác
nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho kết quả là sự ngôn ngữ hoá một lĩnh vực
nào đó trong cuộc sống.
Các quan niệm của J. Trier và L. Weisgerber đều có những hạn chế nhất
định. Khắc phục những hạn chế dó, W. Porzig đã phân chia trường thành
những nguyên tắc khác. Từ năm 1934, W. Porzig đã đề nghị nguyên tắc liên
tưởng. Theo quan niệm của ông, một từ nào đó xuất hiên thể nào cũng gợi đến
sự tồn tại của những từ khác. Chẳng hạn từ “ăn uống” sẽ gợi đến sự tồn tại
của từ “miệng”, nhưng quan hệ ngược không xảy ra vì miệng không nhất thiết
là phải ăn – uống mà còn thực hiện rất nhiều hoạt động khác như nói,
cười…Dựa trên cơ sở này, từ vựng được chia ra thành các trường nghĩa cơ
20
bản mà hạt nhân của nó bao giờ cũng là động từ hoặc tính từ, tức là chúng
thường làm vị ngữ.
Ở Việt Nam, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Những quan hệ về ngữ nghĩa giữa
các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào những hệ thống con thích hợp. Nói
cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ
thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ
thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng [6, tr.
156]. Từ đó, Đỗ Hữu Châu đưa ra định nghĩa về trường từ vựng – ngữ nghĩa
như sau: Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là
những từ đồng nhất với nhau về nghĩa [6, tr. 157]
Mối quan tâm về trường từ vựng – ngữ nghĩa và biểu hiện của tính hệ
thống trong từ vựng đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu sau này tiếp tục.
Song, việc nghiên cứu trường từ vựng – ngữ nghĩa đã không còn bị bó hẹp
trong nội bộ hệ thống từ vựng mà đã được mở rộng ra cả lĩnh vực hoạt động
của ngôn ngữ với những biểu hiện đa dạng. Điều này cho thấy các quan hệ
ngữ nghĩa giữa các đơn vị từ vựng đã được quan tâm từ nhiều góc độ khác
nhau, cả từ bình diện hệ thống đến bình diện hoạt động của ngôn ngữ.
1.5.2 Phân loại trường nghĩa
Để chỉ ra tính hệ thống của ngôn ngữ, F. De. Saussure trong “Giáo trình
Ngôn ngữ học đại cương” đã chỉ ra hai mối quan hệ cơ bản giữa các đơn vị đồng
loại của ngôn ngữ, đó là quan hệ ngang (quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính,
quan hệ ngữ đoạn) và quan hệ dọc (quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình). Cũng
dựa trên hai mối quan hệ này, trường từ vựng – ngữ nghĩa cũng được phân loại
thành các trường từ vựng – ngữ nghĩa theo quan hệ ngang (quan hệ tuyến tính)
và trường từ vựng – ngữ nghĩa theo quan hệ dọc (trường nghĩa biểu vật và
trường nghĩa biểu niệm). Bên cạnh hai loại trường nghĩa cơ bản đó, trong ngôn
ngữ còn tồn tại một loại trường nghĩa khá đặc sắc, đó là trường nghĩa liên tưởng.
21
1.5.2.1 Trường nghĩa ngang
Để lập nên trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi
tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính (cụm
từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Chẳng hạn trường tuyến tính của từ “mắt” là: bồ câu, lươn, bò, lồi, nai,
trợn, liếc, lúng liếng, trừng…Trường tuyến tính của từ “đi” là nhanh, chậm,
tập tễnh, khập khiễng, lên, xuống, ra, vào, giày, dép…
Các từ trong một trường tuyến tính là những từ thường xuất hiện với từ
trung tâm trong các loại ngôn bản. Phân tích ý nghĩa của chúng, ta có thể phát
hiện được những nội dung ngữ nghĩa của các quan hệ cú pháp và tính chất của
các quan hệ đó. [2, tr. 187]
Ví dụ: Các từ nằm trong trường tuyến tính của từ “viết” sẽ là các từ chỉ
tính chất như: nhanh, chậm, xấu, đẹp hoặc các từ chỉ sự vật như: bài, thiệp,
nhật ký, báo…, không thể là những từ chỉ nơi chốn. Trái lại, trong trường
tuyến tính của các từ “tại, ở, tới”…thường là những từ chỉ nơi chốn như: Hà
Nội, sân, vườn, trường…
Nói một cách khác, các từ chỉ nơi chốn có quan hệ cú pháp chặt với các
từ chỉ hoạt động dời chỗ, chỉ tư thế nhưng lại có quan hệ cú pháp lỏng với các
động từ chỉ hành động phá vỡ, tạo tác…Các từ có quan hệ cú pháp chặt
thường hiện thực hoá các nét nghĩa trong cấu trúc biểu niệm của từ. Các
trường tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ có cấu trúc ngữ nghĩa
của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc điểm hoạt động
của từ. [2, tr.187]
1.5.2.2 Trường nghĩa biểu vật
Trường nghĩa biểu vật là tập hợp các từ ngữ đồng nhất với nhau về nghĩa
biểu vật (về phạm vi biểu vật).
Để xác lập trường nghĩa biểu vật, người ta chọn một danh từ biểu thị sự
vật làm gốc, rồi trên cơ sở đó thu thập các từ ngữ có cùng phạm vi biểu vật với
22
danh từ được chọn làm gốc đó. Các danh từ được chọn làm gốc phải có tính
khái quát cao, gần như là tên gọi của các trường biểu vật như: người, động vật,
thực vật, vật thể, chất liệu…Các danh từ này cũng là tên gọi các nét nghĩa có
tác dụng hạn chế ý nghĩa của từ về mặt biểu vật, là những nét nghĩa cụ thể, thu
hẹp ý nghĩa của từ. Như vậy, chúng ta sẽ đưa một từ và một trường biểu vật
nào đó khi nét nghĩa biểu vật của nó trùng với tên gọi của danh từ trên.
Ví dụ: Chọn từ hoa làm gốc, ta có thể thu thập các từ đồng nhất về phạm
vi biểu vật với hoa như:
- Các loại hoa: hoa hồng, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa lan…
- Các bộ phận của hoa: đài, cánh, nhuỵ…
- Tính chất, trạng thái của hoa: nở, tàn, tươi, héo, đẹp, xấu…
- Màu sắc của hoa: đỏ, hồng, vàng, tim tím…
- Mùi của hoa: thơm, ngát, ngào ngạt
- Hình dáng, kích thước của hoa: to, nhỏ…
Tuỳ theo mục đích của việc huy động vốn từ mà ta có thể lựa chọn số
lượng các tiêu chí để xác lập trường nghĩa. Ví dụ: có thể chọn thêm các tiêu
chí liên quan đến trường nghĩa hoa như: cách trồng hoa, chăm sóc hoa…
Có những từ chỉ số trường là 1, có nghĩa là từ đó chỉ có thể nằm trong
một và chỉ một trường mà thôi (các từ: bồng, xách, quắc, trợn…). Đó là
những từ điển hình của trường.
Bên cạnh đó lại có những từ đi vào hầu hết các trường biểu vật có thể có
của một ngôn ngữ như: tốt, xấu, cao, thấp…Các từ có chỉ số trường biểu vật
thấp là những từ bị quy định về biểu vật rất mạnh, trái lại, những từ càng đi
vào nhiều trường thì tính bị quy định về biểu vật càng yếu, ý nghĩa càng khái
quát. Các trường nghĩa khác nhau có thể có một số lượng từ ngữ nhất định
chung nhau. Các trường nghĩa đó được gọi là trường nghĩa giao nhau. Chẳng
hạn: trường nghĩa CHÓ và CHIM là hai trường nghĩa giao nhau vì ngoài các
23