1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Lịch sử các giai đoạn phát triển doanh nghiệp Việt Nam và pháp luật doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.59 MB, 74 trang )


Khóa luận tốt nghiệp

tranh gay gắt của người Pháp, Hoa kiều. Đây có thể coi là một thời điểm

bước ngoặt trong truyền thống hoạt động kinh doanh của V i ệ t Nam, từ chỗ

n

không được nhà nước phong kiến thừa nhận các loại hình doanh nghiệp đế

chỗ được thừa nhận bởi sự cai trọ của Pháp.

Sau ngày Cách mạng Tháng T á m thành công và chín năm kháng chiến

chống Pháp, mặc dù bọ chia thành vùng tạm chiế và vùng tự do, hoạt động

m

kinh doanh về thực chất không có nhiều biến động m à còn được khuyến

khích đối với người Việt Nam hơn giai đoạn trước. Nhà nước đã ban hành

sắc lệnh xoa bỏ m ọ i sự hạn chếcủa chế độ thực dân Pháp đối với các thủ

tục đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, chính phủ cũng

đồng ý để các công ty ngoại quốc được tiếp tục tiến hành cấc hoạt động

kinh doanh như trước. Đây là lần đáu tiên ở Việt Nam xuất hiện loại hình

doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài. Thòi kỳ này, các chủ doanh

nghiệp cũng đóng góp nhiều công sức và tài sản cho cuộc kháng chiến.

Điểm khác biệt lòn nhất trong thời kỳ này là các loại hình doanh nghiệp từ

chỗ chọu sự điều chỉnh của luật nước Pháp sang chọu sự điều chỉnh của luật

nước Việt Nam độc lập.

Sau năm 1954, tình hình chính trọ và xã hội V i ệ t Nam có những biến

động lớn. Mặc dù đã giành được độc lập nhưng đất nước vẫn bọ chia cắt

thành hai miền hoàn toàn khác nhau về chính trọ và kinh tế và do vậy những

loại hình doanh nghiệp ở hai miền có nhiều biến động lớn.

Tại miền Bắc, Chính phủ thực hiện chính sách xoa bỏ từng bước hình

thức sở hữu tư nhân, thực hiện quốc hữu hoa hầu hế những doanh nghiệp

t

có nguồn gốc sở hữu tư nhân, tổng số khoảng 960 cơ sở. v ề thực chất là

xoa bỏ hầu hế những loại hình doanh nghiệp, tức là các hình thức sở hữu

t

khác nhau đối với các cơ sở sản xuất, chỉ còn tồn tại những cơ sở sản xuất,

doanh nghiệp thuộc sở hữu quốc doanh và tập thể.



Sinh viên: Nguyễn Thị Lè Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



14



Khóa luận tốt nghiệp

Tại miền Nam, tình hình khác hẳn, chính quyền Sài G ò vẫn duy t ì

n

r

những loại hình doanh nghiệp đa dạng, bao gồm cả sở hữu tư nhân, đầu tư

từ nước ngoài. Đ ể bảo đảm thuận l ợ i cho hoạt động sản xuất kinh doanh,

chính quyền Nguy còn ban hành những chính sách bảo hộ cho doanh

nghiệp trong nước, đánh thuế cao vào hàng hoa nhập khờu, ưu đãi thuế cho

nhập nguyên liệu, cấm Hoa kiều sản xuất kinh doanh 11 ngành k i n h tế, hỗ

trợ tín dụng cho các doanh nghiệp. Thời kỳ này, doanh nghiệp tại miền

Nam Việt Nam phát triển tương đối mạnh mẽ. Tính đến năm 1975, tại miền

Nam có 22.500 doanh nghiệp thuê từ 5 công nhân trở lên.[Ì, tr.67]

Sau k h i thống nhất đất nước năm 1975, tại miền Nam, các loại hình

doanh nghiệp cũng có những biến động to lớn, giống như miền Bắc thời kỳ

trước đó. Trong thời kỳ này Nhà nước đã quốc hữu hoa 32.000 cơ sở sản xuất

kinh doanh của cả người Việt Nam và người nước ngoài. T ừ năm 1979 đến

năm 1986, trên lãnh thổ nước Việt Nam thống nhất, các loại hình doanh

nghiệp có nguồn gốc sở hữu ngoài nhà nước và tập thể không được phép tồn

tại, chỉ có các doanh nghiệp quốc doanh và các cơ sở sản xuất sở hữu tập thể

và các hợp tác xã. Tính đến năm 1986, cả nước có khoảng 10.000 doanh

nghiệp quốc doanh, một con số rất nhỏ so v ớ i dân số 65 triệu người.

[2, tr. 67].



3.2. Thời kỳ từ 1987 đến nay

Thực hiện chính sách đổi mới, các loại hình doanh nghiệp lần lượt

được Chính phủ cho phép hoạt động. Ngày 29-12-1987, Luật dầu tư nước

ngoài được ban hành, chính thức chấp nhận sự trở lại của đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam. N h ư vậy, sau hơn 10 năm, kể từ ngày đất nước thống nhất,

đã xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, báo hiệu những

loại hình doanh nghiệp khác sẽ dược phép hình thành và phát triển.



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



15



Khóa luận tốt nghiệp

Nghị quyết Đ ạ i h ộ i lần thứ V I của Đảng và Nghị quyết H ộ i nghị lần

thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã công nhận sự t ồ n tại của các

thành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền k i n h tế quốc dân bên

cạnh kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã. Các hoạt động kinh tế của các

thành phần k i n h tế này thực hiện dưới 3 hình thức:

(i) hộ cá thể,

(ri) hộ tiểu công nghiệp và

(iii) xí nghiệp tư doanh

Tuy nhiên, các quy định về hình thức kinh doanh này không rõ ràng,

cở thể, và rất chung chung. Luật pháp không xác định rõ chế độ trách

nhiệm, tổ chức quản lý, và bị hạn chế rất nhiều trong hoạt động kinh doanh.

Ngay trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, ngày 21-112-1990,

Quốc hội khoa V U I đã thông qua hai đạo luật quan trọng là Luật công ty và

Luật doanh nghiệp tư nhân. Hai đạo luật này đã tạo cơ sở chính trị pháp lý

cho sự phát triển k h u vực kinh tế tư nhân ở nước ta, là một mốc quan trọng

và có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi m ớ i kinh tế, chuyển sang nền

kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật doanh nghiệp tư nhân và

Luật công ty quy định 3 loại hình doanh nghiệp cho k h u vực k i n h tế tư nhân

là: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.

Trong hơn 8 năm thi hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân,

đã có hơn 35.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập v ớ i số vốn đăng ký

khoảng 17.389 tỷ đồng. Trung bình m ỗ i n ă m có thêm 5.000 doanh nghiệp

mới đăng ký với tổng số vốn đăng ký trung bình n ă m khoảng 2.484 tỷ đồng.

Theo ước tính sơ bộ, trong hơn 8 năm, doanh nghiệp tư nhân và công ty

đã tạo ra hơn 400.000 chỗ làm và đã đóng góp không nhỏ vào nguồn thu



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



16



Khóa luận tốt nghiệp

của ngân sách nhà nước. Công ty và doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng

8 % tổng sản phẩm xã hội.[3, tr.67]

Trong suốt thời gian m ư ờ i mấy n ă m vừa qua, khung k h ổ pháp lý nói

chung và khung k h ổ pháp lý về doanh nghiệp nóiriêngđã không ngừng

được hoàn thiện và phát triển thêm. Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại,

Luật khuyến khích đẳu tư trong nước, Luật phá sản doanh nghiệp và các

luật khác về doanh nghiệp như: Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật hợp tác

xã, v.v... đã được ban hành. Luật đẳu tư nước ngoài cũng được sửa đổi, bổ

sung theo hướng thu hẹp sự khác biệt, tiến t ớ i tiến trình hình thành một

khung khổ pháp lý bình đẳng đối với doanh nghiệp trong nước và doanh

nghiệp có vốn đẳu tư nước ngoài. Điều này phù hợp với các cam kết quốc tế

của Việt Nam k h i tham gia A S E A N (AFTA, chương trình M A , AICO),

APEC, ký kết hiệp định thương mại với Hoa K ỳ và đang cam kết để gia

nhập WTO...

V ớ i tính thời sự và tâm quan trọng của công cuộc đổi m ớ i kinh tế m à

Đảng



và N h à nước ta đề ra và quyết tâm thực hiện, thì những quy định



trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây không

còn thích hợp với n ộ i dung tương ứng của một số luật khác có liên quan,

đặc biệt là Luật khuyến khích đẳu tư trong nước, Bộ luật dân sự, Bộ luật

thương mại... Điều đó đòi hỏi phải có sự sửa đổi về hai đạo luật này và đi

tới một dạo luật chung thống nhất điều chỉnh về các loại hình công ty và

doanh nghiệp tư nhân theo hướng mở rộng thêm các loại hình doanh nghiệp

khác, đơn giản hoa thủ tục đăng ký kinh doanh, v.v... Điều này sẽ tăng

cường tính linh hoạt cho các nhà đẳu tư trong việc lựa chọn hình thức và cơ

hội đẳu tư phù hợp nhất với khả năng của h ọ và tăng_cường vai trò quản lý

nhà nước, giám sát bằng pháp luật đối với doanlị. nlMẹ^lHitc hiện cải cách

thủ tục hành chính.



Uừv



ri



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang • Trung ĩ - K40F - KTNT



17



Khóa luận tốt nghiệp



Ngày 12-6-1999, Quốc hội khoa X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua toàn

văn Luật doanh nghiệp vối 10 chương và 124 diều. Luật doanh nghiệp quy

định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình

doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp

danh và doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp được chuyển đổi thành

công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tẫ doanh nghiệp nhà nước,

doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Ngày 26-11-2003, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 dã thông qua toàn

văn Luật doanh nghiệp nhà nước mới với 11 chương và 95 điểu thay thế

Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Luật doanh nghiệp nhà nước 2003

quy định về việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu, tổ

chức quản lý và hoạt động của công ty nhà nước.

Hai luật trên cùng với một số quy định về doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài và một số văn bản pháp quy nghị định, thông tư hướng dẫn thực

hiện các quy định đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở

thành khung phấp lý cơ bản về pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trong hệ

thống luật kinh tế nước ta điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt

động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

li. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT

NAM (XÉT THEO T H À N H PHẦN SỞ HỮU) HIỆN NAY

1. Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước gồm có các tổng công ty nhà nước được thành

lập và tổ chức hoạt động theo quyết định QĐ90/TTG ngày 7/3/94 và

QĐ91/TTG ngày 7/3/94, các doanh nghiệp hoạt động độc lập với mục đích

kinh doanh hoặc hoạt động cõng ích.



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F -



KTNT



Khóa luận tốt nghiệp

Theo Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê, tính đến n ă m 2000,

nước ta có khoảng 5.571 doanh nghiệp nhà nước, chiếm khoảng 1 7 % tổng

số doanh nghiệp cả nước, số lượng giảm khoảng 12.000 doanh nghiệp so

với dầu năm 1990, m à nguyên nhân chủ yếu là diễn ra do quá trình sáp

nhập. Theo nguyên tắc hiến định, doanh nghiệp nhà nước là dộng lực của

nền kinh tế, góp phần để k h u vực kinh tế thực hiện được vai trò chủ đữo

trong nền kinh tế quốc dân, là đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thà

nh

phần kinh tế khác liên kết với doanh nghiệp nhà nước phát huy sức mữnh

tổng hợp của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nước nắm g i ữ hầu hết các

nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng số vốn; 8 5 % tài sản cố định;

1 0 0 % các mỏ và tài nguyên thiên nhiên, 8 0 % rừng... Tuy nhiên, khu vực

kinh tế nhànước chỉ đóng góp 3 0 % vào GDP, 6 0 % số doanh nghiệp nhà

nước làm ăn thua lỗ. Tổng số nợ của các doanh nghiệp nhà nước (bao gồm

cả nợ nội bộ) lên đến 135 tỷ USD vào cuối năm 1999 (Số liệu của W o r l d

Bank).

V ớ i mục tiêu thực hiện sắp xếp, đổi m ớ i doanh nghiệp nhà nước từ

năm 1992, kết quả đữt được tính đến hết tháng 7/2004 cả nước đã cổ phần

hóa được 2.242 doanh nghiệp nhà nước.

Qua cổ phần, doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu theo hướng tập

trung quy m ô lớn, hướng vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh

tế. Hiệu quả sau k h i sắp xếp lữi là đã tăng thêm 3.300 tỷ số vốn huy động;

quy m ô vốn của doanh nghiệp nhà nước tăng từ bình quân khoảng 24 tỷ

đồng năm 2001 lên 63,6 tỷ đồng. Tài chính doanh nghiệp dược lành mữnh

hóa thông qua việc cơ cấu lữi các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hóa

ứ đọng, tồn kho, m á y m ó c thiết bị cũ... ị nguồn :www. mọi. org.vn)

Các doanh nghiệp nhà nước có đóng góp quan trọng vào nền kinh tế

quốc dân:



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



19



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

×