1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Yêu cầu của hệ thống pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.59 MB, 74 trang )


Khóa luận tốt nghiệp

Cho đến nay, Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa

đổi) năm 2003, và m ộ t số quy định về loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài trong Luật đầu tư nước ngoài t ạ i V i ệ t Nam cùng với các nghị

định hướng dãn thi hành tương ứng tạo thành hệ thống pháp luật về các loại

hình doanh nghiệp ở nước ta. H ệ thống pháp luật nói trên là một trong

những nhân t ố quan trọng góp phần vào sự thành công chung của công cuộc

đổi m ớ i và phát triẩn kinh tế ỏ nước ta trong gần hai chục năm qua.

Tuy vậy, trước yêu cầu nội tại về đẩy nhanh tốc độ phát triẩn kinh tế,

xóa đói giảm nghèo và yêu cầu của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,

hệ thống pháp luật nói trên về các loại hình doanh nghiệp dã bộc l ộ những

khiếm khuyết và không còn phù hợp. Trong các luật nói trên, vẫn còn

những quy định khấc biệt không cần thiết, ngay từ khái niệm về loại hình

doanh nghiệp, về thủ tục thành lập và rút khỏi thị trường, về cơ cấu tổ chức

và quản lý n ộ i bộ, dẫn đến khác nhau về thẩm quyền và địa vị pháp lý, khác

nhau về n ộ i dung quản lý nhà nước, kẩ cả giữa doanh nghiệp trong nước

thuộc các thành phẩn k i n h tế, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh

nghiệp có vốn nước ngoài. C ó những loại hình doanh nghiệp nhà nước vừa

thực hiện Luật Doanh nghiệp nhà nước, l ạ i vừa thực hiện Luật Doanh

nghiệp. Những khác biệt đó làm cho hệ thống pháp luật về kinh doanh thiếu

nhất quán: còn sự phân biệt đối x ử đối với các nhà đầu tư và các loại hình

doanh nghiệp khác nhau, đã hạn chế việc phát huy các nguồn lực, đổng thời

vừa tản mạn gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp.

2.1. Trước hết, hệ thống pháp luật về loại hình doanh nghiệp vẫn bị

"chia cắt", tách biệt áp dụng theo thành phần k i n h tế. Do đó, doanh nghiệp

có cùng loại hình pháp lý nhưng khác nhau về sở hữu và thành phần kinh tế,

thì được quy định hay "đối xử" khác nhau và bất bình dẳng về:

* Thủ tục, điều kiện gia nhập thị trường và rút k h ỏ i thị truồng;



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



42



Khóa luận tốt nghiệp

* C ơ cấu, thẩm quyên và cách thức tổ chức quản lý n ộ i bộ;

* Phạm v i k i n h doanh, các quyền và mức độ tự chủ thực hiện các

quyền k i n h doanh của doanh nghiệp;

* M ứ c độ và phương thức tổ chức l ạ i kinh doanh; và

* Chế độ và phương thức quản lý nhà nước đối v ớ i doanh nghiệp;

V.V.V..



Trong k h i thủ tục và điề kiện gia nhập thị trường của doanh nghiệp tư

u

nhân trong nước đã dưồc đơn giản hóa; thuận lồi, rõ ràng và í tốn kém thì

t

gia nhập thị trường của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải

qua quá trình x i n phép (hoặc đăng ký cấp phép) phức tạp, nhiề tầng nấc

u

với hàng chục loại hồ sơ, thủ tục và điều kiện chưa rõ ràng, chưa hồp lý,

chưa cụ thể và chưa tiên liệu trước đưồc. Điều đó đã và đang làm nản lòng

hoặc í nhất chần chừ và do d ự của không í các nhà đầu tư tiềm năng; tạo

t

t

dư địa nuôi dưỡng tình trạng tham nhũng, h ố i l ộ và sách nhiễu đối v ớ i

người đầu tư. Đ ó còn là công cụ đưồc sử dụng để bảo hộ độc quyề và l ồ i

n

ích cục bộ của một số tổng công ty nhà nước và những người có liên quan.

Trong k h i doanh nghiệp của tư nhân trong nước đưồc toàn quyền tự chủ

kinh doanh, tự chủ huy động vốn dưới các hình thức đa dang, tự chủ m ở

rộng quy m ô , địa bàn và đa dạng hóa ngành, nghề kinh doanh trong tất cả

các ngành nghề m à pháp luật không cấm thì doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoai chỉ đưồc k i n h doanh với quy m ô và phạm v i ngành nghề đưồc

xác định cụ thể trong giấy phép đầu tư do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

cấp. Tất cả những gì vưồt ra ngoai nội dung của giấy phép nói trên đề là

u

"lĩnh vực cấm" dối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoai tương ứng.

Thực tế nói trên là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho "kinh t ế

có vốn đầu tư nước ngoai còn gặp nhiều khó khăn do mòi trường đầu tư

chưa đủ thông thoáng, thuận l ồ i , nhất quán và ổn định; phần nào chưa



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



43



Khóa luận tốt nghiệp

được coi là bộ phận quan trọng cấu thành của nền k i n h tế quốc dân". M ộ t

m â u thuẫn khác là, trong k h i doanh nghiệp của tư nhân trong nước và doanh

nghiệp có v ố n đầu tư nước ngoai dược tự chủ quyết định về công việc kinh

doanh của mình, thì doanh nghiệp nhà nước vẫn chịu ràng buộc hay chi

phối bởi can thiệp hành chính chủ quản, thiếu phối hợp của không í cơ

t

quan quản lý hành chính nhà nước,...

Các chủ trương, chính sách m ớ i đối với các thành phần kinh tế theo

Nghị quyết Đ ạ i h ộ i lần thể I X của Đảng và Nghị quyết H ộ i nghị lần thể 3,

thể 5 và thể 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa I X đòi h ỏ i phải được

cụ thể hóa và thể chếhóa bằng Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích

và Bảo hộ đầu tư với những quy định gần nhau hơn về quyền tự do kinh

doanh trong những lĩnh vực m à pháp luật không cấm và tổ chểc, quản lý

nội bộ doanh nghiệp, không tách biệt theo thành phần kinh tế và nguồn vốn

đầu tư.

2.2. H a i là, bản thân các luật riêng về doanh nghiệp đã bộc l ộ các

khiếm khuyết cần bổ sung, sửa đổi.

- Doanh nghiệp có vốn đẩu tư nước ngoài được quy định lẻ tẻ và rời

rạc trong một số nội dung của Luật đầu tư nước ngoài tại V i ệ t Nam và các

nghị định hướng dẫn t h i hành. Quy định về loại hình doanh nghiệp được

"đặt" trong luật về chính sách; do dó, bản thân các quy định đó mang nặng

tính chính sách, chịu ảnh hưởng của cách suy nghĩ và quan niệm hành

chính chủ quản của cơ quan nhà nước. Do đó, tính không ổn định và nặng

về hành chính là một trong những điểm yếu của các quy định về doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài chỉ được hoạt động dưới loại

hình công t y trách nhiệm hữu hạn cũng là hạn chếhay điểm yếu của quy

định về loại hình doanh nghiệp trong Luật Đ ầ u tư nước ngoài tại V i ệ t Nam.



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



44



Khóa luận tốt nghiệp

Ngoài ra, quan n i ệ m về doanh nghiệp và về công t y trách nhiệm hữu hạn

trong luật về đầu tư nước ngoài không tương thích và phù hợp v ớ i các

nguyên tắc và quan n i ệ m quốc tế chung về cóng t y trách nhiệm hữu hạn.

Còn hàng loạt các vấn đề cơ bản m à pháp luật về loại hình doanh

nghiệp, nhất là về công t y trách nhiệm hữu hạn, chưa được giải quyết trong

các quy định về doanh nghiệp trong Luật đầu tư nước ngoài tại V i ệ t Nam.

Cụ thể là:

Chưa quy định quyền và nghĩa vụ của các thành viên, cổ đông; quyền và

lợi ích hợp pháp của thành viên, cổ đông, nhất là thành viên cổ đông thiểu

số chưa dược bảo vệ hợp lý;

- Thiếu các quy định và công cụ hợp lý bảo vệ l ợ i ích hợp pháp của

các chủ nợ.

- Không quy định chế đồ quản trị nồi bồ của doanh nghiệp 1 0 0 % vốn

nước ngoài;

- Đ ố i v ớ i c h ế đồ quản trị doanh nghiệp liên doanh, thì không quy

định quyền của chủ sở hữu, không quy định địa vị pháp lý và thẩm quyền

cụ thể của H ồ i đồng quản trị, quyền và nghĩa vụ của thành viên H Đ Q T và

các vấn đề khác của H Đ Q T , không quy định địa vị pháp lý và thẩm quyền

của Tổng giám đốc, không quy định chế đồ k i ể m soát n ồ i bồ, chế đồ công

khai hóa và m i n h bạch hóa thông tin quản lý, v.v...,

- Không quy định kiểm soát các giao dịch tư lợi.

- Luật doanh nghiệp, tuy đã đạt được những thành công và tiến bộ

đã được thừa nhận rồng rãi, nhưng cũng đã bồc l ồ mồt số điểm yếu. Đ ó là:

+ Quyền của cổ đông thiểu số còn yếu và chưa được quy định đầy đủ

nên quyền và l ợ i ích hợp pháp của họ chưa được thực hiện và bảo vệ ở mức

cần thiết;



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



45



Khóa luận tốt nghiệp

+ Các quy định ngăn ngừa l ạ m dụng chế độ trách nhiệm hữu hạn của

thành viên, cổ dông còn yếu; vì vậy, l ợ i ích hợp pháp của các chủ nợ chưa

dược bảo vệ thỏa dáng;

+ C ơ c h ế và thẩm quyền quyết định trong quản trị n ộ i bộ doanh

nghiệp, nhất là ở công ty cổ phốn và công ty trách nhiệm hữu hạn, còn lỏng

so với tiêu chuẩn chung phổ biến ở k h u vực và quốc tế; và do đó, nguy cơ

lạm



dụng quyền lực của cổ đông, thành viên đa số và người quản lý là



không nhỏ;

+ C ơ cấu quản trị còng ty trách nhiệm hữu hạn chưa tính đến sự tách

biệt giữa chủ sở hữu và người quản lý; vì vậy, có thể chưa phù hợp với công

ty trách nhiệm hữu hạn m à thành viên của nó là pháp nhân;

+ C ơ c h ế giám sát của thành viên và cổ đông hoặc gián tiếp thông

qua các thể chế như k i ể m toán, k i ể m soát nội bộ, v.v... chưa được quy định

đốy đủ, hoặc chưa phát huy được hiệu lực như mong muốn;

+ N h ó m người có liên quan cũng như sự giám sát đối với các giao

dịch của họ với công t y chưa được quy định đốy đủ, hợp lý và chưa được

thực hiện có hiệu quả;

+ Chế độ công khai hóa thông t i n cho cổ đông, thành viên cũng như

cho công chúng còn m ờ nhạt và kém hiệu lực trên thực tế.

Những k h i ế m khuyết nói trên của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp

là một trong các yếu t ố đang làm cho môi trường k i n h doanh ở nước ta trở

nên kém cạnh tranh, chưa đáp ứng được với yêu cốu nội tại về thú đẩy cải

c

cách và phát triển kinh tế, cũng như yêu cốu của quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế.



Sinh viên: Nguyễn Thị Lé Trang • Trung 2 - K40F - KTNT



46



Khỏa luận tốt nghiệp

3. Yêu cầu từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế



Kể từ khi tiến hành Đổi mới, Việt Nam cũng bắt dầu gia nhập vào đời

sống kinh tế thế giới. Hiện nay chúng ta đang tiến tới thực hiện đẩy đủ các

cam kết khu vực tự do ASEAN (AFTA), từng bước tự do hóa thương mại

trong khuôn khổ APEC, chuẩn bị các điều kiện và đang tích cực đàm phán

gia nhập WTO. Đồng thời với các đàm phán đa phương, chúng ta cũng

đang tiến hành đàm phán song phương với khoụng 20 dối tác về mở cửa thị

trường hàng hóa và dịch vụ.

Hiện nay đã có 86 Hiệp định thương mại song phương và 47 Hiệp định

bụo hộ đầu tư song phương được ký kết giữa Việt Nam và các nước. Số đối

tác thương mại của các doanh nghiệp cũng đang không ngừng tăng ở gần

220 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành về doanh nghiệp rõ ràng

không phù hợp vói nguyên tắc và nội dung của các hiệp định dầu tư và

thương mại đã ký hoặc trong giai đoạn chuẩn bị ký kết, đặc biệt là MFN

(chế độ tối huệ quốc) và NT (chế độ đối xử quốc gia) và mở cửa thị trường

trong nước.

Nước ta đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, phụi tuân thủ các

cam kết quốc tế, trong đó một nội dung quan trọng là nguyên tắc đối xử

quốc gia (không phân biệt chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp trong

nước và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư kinh doanh ở nước ta). Vì vậy, hệ

thống pháp luật nước ta cũng phụi điều chỉnh phù hợp với các cam kết quốc

tế, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO; đương nhiên có lộ trình thực

hiện từng bước phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội nước ta.

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX và một số nghị quyết hội nghị Ban chấp

hành Trung ương đã nhiều lần khẳng định chủ trương xây dựng Luật thống

nhất về doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và

Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang • Trung 2 - K40F - KTNT



47



Khóa luận tốt nghiệp

phù hợp vói quá trình tích cực và chủ động h ộ i nhập k i n h tế quốc tế. C ó thể

nêu một số n ộ i dung cụ thể của chủ trương nói trên như: "đơn giản hoa thủ

tục hành chính, công khai hoa và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn

của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp và nhân dân;

kiên quyết xoa bỏ những quy định và thủ tục hành chính mang nặng tính

hành chính và quan liêu, bao cẩp kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản

xuẩt, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân"; "giảm mạnh,

tiến tới xoa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong

nước và đầu tư nước ngoài"; "khẩn trương chuyển doanh nghiệp nhà nước

sang hoạt động theo chế độ công ty dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu

hạn một thành viên là nhà nước hoặc công ty cổ phần,... đảm bảo doanh

nghiệp nhà nước có đầy đủ quyền của một pháp nhân"; "xác định rõ l ộ trình

xoa bỏ c h ế độ chủ quản đối v ớ i doanh nghiệp nhà nước"; "chủ động và

khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam

kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt các

điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); tạo môi

trường đầu tư, k i n h doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng,

có tính cạnh tranh cao so với khu vực; tăng nhanh xuẩt khẩu và thu hút

mạnh đầu tư nước ngoài". Do đó, phải "triển khai khẩn trương và dồng bộ

việc chuẩn bị đầy đủ diều kiện để giành thế chủ động trong hội nhập, nhẩt

là sửa dổi và xây dựng m ớ i các văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu hội

nhập".

N h ư vậy, việc ban hành Luật Doanh nghiệp (thống nhẩt) đã trở thành

một giải pháp cơ bản cần thiết đáp ứng yêu cầu n ộ i tại khách quan về hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện

thuận l ợ i thúc dẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững trong

những năm tiếp theo. Luật Doanh nghiệp (thống nhẩt) với n ộ i dung phù hợp

sẽ là một thay đổi có tính bước ngoặt trong việc tạo môi trường kinh doanh



Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT



48



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

×