Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.59 MB, 74 trang )
Khóa luận tốt nghiệp
quyết được ngay trong m ộ t sớm một chiêu. Cụ thể về những n ộ i dung dưới
đây.
2.1. Những điểm tích cực
- Xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế.
Đúng như tên gọi, Luật Doanh nghiệp thống nhất có mục đích kết hợp
và tiến t ớ i thay t h ế các quy định hiện hành về thành lập, tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật Đ ả u tư nước ngoài tại
Việt Nam, Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Luật Doanh nghiệp thống nhất sẽ
tạo ra khung pháp lý áp dụng theo loại hình, đặc trưng doanh nghiệp chứ
không theo chủ thể sở hữu doanh nghiệp. Cụ thể là Luật Doanh nghiệp
thống nhất sẽ quy định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của bốn loại
hình doanh nghiệp cơ bản: doanh nghiệp tư nhân, công t y hợp danh, công ty
T N H H và công ty cổ phản. Bất cứ doanh nghiệp nào thuộc một trong bốn
loại hình này đều được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp thống nhất m à
không phụ thuộc vào tính chất sở hữu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên sự phân biệt dối xử bất hợp lý giữa doanh nghiệp thuộc các
thành phản k i n h tế khác nhau có thực sự được xóa bỏ hoàn toàn hay không
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đ ố i với các nhà đảu tư nước ngoài, mặc dù
quyền tự do k i n h doanh được m ở rộng đáng kể, nhưng họ vẫn còn có thể bị
hạn c h ế hoặc bị từ chối trong một số ngành m à doanh nghiệp trong nước
không bị cấm hoặc hạn chế.
Các doanh nghiệp nhà nước muốn hoạt dộng theo Luật Doanh nghiệp
thống nhất thì phải chuyển đổi sang công ty T N H H hoặc công t y cổ phẫn.
Có quy định bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển sang hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp thống nhất hay không, thời gian phải chuyển
đổi là bao lâu vẫn chưa tìm được sự đồng thuận.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT
54
Khóa luận tốt nghiệp
Nếu vẫn còn các doanh nghiệp nhà nước chưa chịu sự điểu chỉnh của
Luật Doanh nghiệp thống nhất thì chưa thể có một sân chơi chung cho tất
cả các thành phần k i n h tế.
- Mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
M ộ t trong những thay đổi đưạc coi là mang tính dột phá của Luật
Doanh nghiệp thống nhất lần này là quyển năng của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sẽ dưạc m ỏ rộng đáng kể.
V ớ i Luật Doanh nghiệp thống nhất, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sẽ đưạc kinh doanh tất cả các ngành nghề m à pháp luật không
cấm chứ không chỉ bị giới hạn trong nội dung của giấy phép dầu tư như quy
định trong Luật Đ ầ u tư nước ngoài hiện hành. Đ ồ n g thời, các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ đưạc hưởng chế độ đăng ký kinh doanh giống như các doanh
nghiệp tư nhân trong nước, nhò dó việc thành lập doanh nghiệp trở nên đơn
giản, nhanh và í chi phí hơn so vói chế độ cấp phép đầu tư phức tạp, tùy
t
tiện và tốn k é m hiện nay.
V ớ i Luật Doanh nghiệp thống nhất, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ
không bị giới hạn ở một loại hình công ty T N H H như hiện nay m à sẽ đưạc
tự do chọn các loại hình doanh nghiệp phù hạp, thí dụ công t y cổ phần với
lại t h ế về huy động vốn trên thị trường tài chính. Nhưng khống chế về mức
sở hữu ( 3 0 % ) đối v ớ i đầu tư nước ngoài về cơ bản sẽ đưạc xóa bỏ. Đ ố i với
một số ngành, nghề hạn chế kinh doanh áp dụng cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sẽ có quy định những điều kiện nhất định m à nhà
đẩu tư nước ngoài phải đáp ứng theo hướng công khai, minh bạch hơn.
Những thay đổi này chắc chắn sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư.
N ế u so v ớ i Luật Doanh nghiệp nhà nước hiện hành, Luật Doanh
nghiệp thống nhất có vẻ khá "hấp dẫn" đối v ớ i các doanh nghiệp nhà nước.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F -
KTNT
55
Khóa luận tốt nghiệp
Thí dụ, hiện nay, nhà đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài được tự
quyết về công việc kinh doanh của mình thì doanh nghiệp nhà nước vẫn
phải chịu ràng buộc hay chi phối bởi sự can thiệp mang tính chất hành
chính, chủ quan và thiếu phối hợp của không ít cơ quan N h à nước.
- Quản trị doanh nghiệp hợp lý, hiệu quả
Luật Doanh nghiệp thống nhất sẽ tạo một khung quản trị thống nhất và
phù hợp vói thông l ệ quốc tế , áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước
(doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước đã chuyữn đổi và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Điều này góp phần nâng cao hiệu quả
quản trị doanh nghiệp, tăng cưởng tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng
cao khả năng thích ứng với tiế trình hội nhập kinh tế khu vực và thếgiới.
n
K h u n g pháp lý chung sẽ giúp giải quyết những tồn tại trong quản trị
doanh nghiệp nhà nước, thí dụ như quyền chủ sở hữu và quyền hạn và trách
nhiệm cùa các cơ quan quản lý chưa được xác định đầy đủ và rõ ràng, vẫn
còn chế độ "hành chính chủ quản", cơ chế tuyữn chọn, bổ nhiệm người
quản lý chưa hợp lý, cơ chếgiám sát điều hành kém hiệu quả v.v. Khác với
Luật Đ ầ u tư nước ngoài hiện hành, Luật Doanh nghiệp thống nhất sẽ không
chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề cân bằng quyền lực giữa các bên trong
liên doanh m à điều chỉnh cả quản trị của doanh nghiệp 1 0 0 % vốn đầu tư
nước ngoài.
D ự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất sẽ khắc phục một số hạn chế
của Luật Doanh nghiệp năm 1999 như vấn đề về bảo vệ quyền l ợ i của cổ
đông thiữu số vói chủ nợ, cơ chếcung cấp và tiếp cận thông t i n , vấn đề
trách nhiệm của các bên góp vốn, sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người
quản lý, giải quyết m ố i quan hệ về quản trị, công ty cổ phần, công t y hợp
danh v.v.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT
56
Khóa luận tốt nghiệp
Ngoài ra D ự thảo sẽ bổ sung một chương m ớ i vềcông t y mẹ, công t y
con và n h ó m công t y - m ộ t hiện trạng rất phổ biến trên thế giới nhưng lại là
m ô hình mói ở việt Nam. Những quy định này m ở ra những cơ hội đầu tư
mới cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo một hướng phát triển m ớ i trong cải
cách doanh nghiệp nhà nước và tạo điề kiện cho các doanh nghiệp tư nhân
u
mở rộng quy m ô k i n h doanh một cách hiệu quả m à vẫn k i ể m soát được
những r ứ i ro phát sinh trong quá trình hoạt động.
2.2. Những
- Phạm
điểm tồn tại
vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp thống nhất chưa bao
quát hết tất cả các loại hình doanh nghiệp
M ộ t bước đổi m ớ i đáng kể cứa Luật Doanh nghiệp thống nhất là việc
Luật quy định vềthành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động cứa 4 loại hình
pháp lý cứa doanh nghiệp áp dụng chung thống nhất không phân biệt thành
phần kinh tế, bản chất sở hữu và ngành nghề kinh doanh.
Các công ty nhà nước hiện nay chưa thuộc 4 loại hình pháp lý cứa
doanh nghiệp kể trên (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,...)
nên hoàn toàn nằm ngoài phạm v i điề chỉnh cứa Luật Doanh nghiệp thống
u
nhất.
Tuy nhiên, hạn chế này có nguyên nhân ở chỗ v ớ i chính sách phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng X H C N như hiện
nay thì việc tồn tại các doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành nghề
chứ chốt là một tất yếu, và như vậy phải có văn bản pháp luật điều chỉnh nó
- đó là Luật doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta cũng không thể đem gộp
Luật Doanh nghiệp nhà nước vào làm một chương riêng cứa Luật Doanh
nghiệp thống nhất vì như t h ế Luật Doanh nghiệp thống nhất sẽ không khác
nào một luật ghép cứa hai luật riêng lẻ. M ấ u chốt ở đây là do các doanh
nghiệp nhà nước đang có một cơ chế pháp lý điề chỉnh hoạt động khác hẳn
u
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F -
KTNT
57
Khóa luận tốt nghiệp
với các loại hình doanh nghiệp khác. Cho nên muốn đưa doanh nghiệp nhà
nước vào phạm v i điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp thống nhất thì cần
phải điểu chỉnh dần dần cơ chế hoạt động và quản lý của doanh nghiệp nhà
nước cũng giống như các loại hình doanh nghiệp khác.
Cho đến thời điểm tác giả viết Khoa luận hiện nay, D ự thảo Luật vẫn
tiếp tục gừp tranh cãi gay gắt, một điều đáng lo ngại dừt ra là D ự thảo Luật
Doanh nghiệp liệu có thống nhất được không. T ừ phạm v i điều chỉnh, với 4
loại hình pháp lý là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, D ự thảo tiếp tục bị tranh luận là có nên
có một chương riêng về các công t y Nhà nước hay không.
Nhiều ý kiến cho rằng phải đưa loại hình doanh nghiệp hiện được ưu
đãi hơn này vào luật thì m ớ i xứng với tên gọi "Luật thống nhất" và mới thực
sự bình đẳng. Ý kiến khác lại cho rằng dù có dưa vào thành một chương
riêng thì thực chất vẫn phân biệt theo sở hữu và dự luật sẽ đơn thuần chỉ là
sự gộp lại của 2 luật riêng lẻ k h i công ty nhà nước vẫn được điều chỉnh theo
Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003. Tuy nhiên, vấn dề khó có thể giải quyết
theo Ì trong 2 hướng, bởi vì theo ý kiến của ông Đừng Văn Thanh, Phó chủ
nhiệm U y ban K i n h t ế và Ngân sách của Quốc hội, đưa vào thì có thể
không giải quyết được nhiều vấn đề, thậm chí có thể làm chậm lại quá trình
cải cách và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước; nếu không đưa vào thì lại
tạo ra sự chồng chéo, m â u thuẫn và kém ổn định trong các quy định pháp
luật có liên quan.
Tác giả Khoa luận nghiêng về ý kiến không đưa doanh nghiệp nhà
nước vào phạm v i điều chỉnh của Luật, bởi vì theo tôi Luật Doanh nghiệp
thống nhất cẩn phải dược hiểu về bản chất. Không nhất thiết m ọ i quy định
về hoạt động của các doanh nghiệp phải đưa vào một luật duy nhất m ố i gọi
là "thống nhất luật". Đ ó thực chất chỉ là vấn đề kỹ thuật làm luật. Đ ể có
một luật doanh nghiệp thống nhất thực sự, có thể hiểu là xây dựng một hệ
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F -
KTNT
58
Khóa luận tốt nghiệp
thống pháp luật thống nhất về doanh nghiệp, trong đó các doanh nghiệp
thuộc các thành phần k i n h tế khác nhau đều được đối x ử bình đẳng như
nhau, không có sự phân biệt về tính chất sở hữu. Do đó, một k h i vẫn còn
những quy định riêng dành cho doanh nghiệp nhà nước thì vẫn chưa thể
được g ổ i là "luật thống nhất". V ấ n đề chỉ được giải quyết triệt để k h i có sự
điều chỉnh chuyển đổi hoàn toàn doanh nghiệp nhà nước thành một trong
bốn loại hình doanh nghiệp thuộc phạm v i điề chỉnh của Luật Doanh
u
nghiệp thống nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn, công t y cổ phần, công ty
hợp danh và công t y tư nhân.
- vẫn còn hạn chế và phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp có vốn
dầu tư nước ngoài
Nghiên cứu m ớ i đây của Ban soạn thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất
cho thấy số lượng các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư theo Luật
Doanh nghiệp 1999 không nhiều. Lý do là sự hạn chế đối với nhà đầu tư
nước ngoài theo Luật doanh nghiệp khắt khe hơn nhiều so với đẩu tư theo
Luật Đ ầ u tư nước ngoài tại Việt Nam, và quyề l ợ i của các nhà đầu tư theo
n
Luật Doanh nghiệp lại không rõ ràng, thậm chí có quy định được đánh giá
là phi lý. Những hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài theo những quy
định của Luật Doanh nghiệp 1999 nằm ở những quy định liên quan đến
ngành nghề k i n h doanh, các thủ tục hành chính thực hiện dầu tư... Cụ thể
các nhà đầu tư bị khống chế vềsở hữu, chỉ dược đầu tư t ố i đa 3 0 % vốn điểu
lệ; bị khống c h ế về ngành nghề kinh doanh. Tổ chức nước ngoài, nguôi
nước ngoài không thường trú ở V i ệ t Nam chỉ được quyền góp vốn, nhưng
lại không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp. Thậm chí trình tự
thủ tục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài cũng không rõ ràng về thủ tục,
trình tự, điều kiện, thời gian chấp thuận hay đăng ký... Bên cạnh đó, một
loạt câu h ỏ i dược đặt ra: Tại sao lại khống chế tỷ l ệ sở hữu 3 0 % trong k h i
theo các luật khác hổ được quyề nắm g i ữ 1 0 0 % sở hữu? Tại sao lại tước đi
n
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F -
KTNT
59
Khóa luận tốt nghiệp
quyền quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài? Lấy càn cứ nào đưa ra danh
mục cho phép đầu tư và tại sao danh mục này lại khác so với danh mục áp
dụng theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam?...
Việc ban hành Luật Doanh nghiệp thống nhất với các quy định thống
nhất cho các loại hình doanh nghiệp, không kể thành phần sở hữu sẽ mở ra
một chế độ gia nhập thị trưẫng thống nhất và bình đẳng hơn giữa các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và cấc doanh nghiệp trong nước. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đăng ký kinh doanh với các thủ tục
và điều kiện về cơ bản giống như đối với các doanh nghiệp trong nước,
nhưng sẽ vẫn còn bị hạn chế ở các điểm sau:
i) Danh mục ngành nghề cấm kinh doanh áp dụngriêngcho doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
li) Danh mục các ngành nghề nhà đầu tư nước ngoài phải xin phép (các
ngành nghề bị hạn chế hay có các điểu kiện)
- Còn hạn chế về sự phù hợp của Dự thảo Luật Doanh nghiệp thống
nhất đối với các thông lệ quốc tế và các hiệp định quốc tếViệt Nam đã cam
kết
Việt Nam dã tham gia rất nhiều hiệp định quốc tế liên quan đến đầu tư
và thành lập doanh nghiệp của nước ngoài, bao gồm:
i) Hiệp ước hợp tác giữa Cộng đồng Châu Âu và Việt Nam (CA) năm
1996.
ii)
Hiệp định Việt Nam - Vương quốc Anh về thúc đẩy và bảo hộ đầu tu
(BPPI) năm 2002.
iii) Hiệp định Pháp - Việt về thúc đẩy và bảo hộ đầu tư (FPPI) năm 1992.
iv) Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA) năm 2001
v)
Những hiệp định khác.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT
60
Khóa luận tốt nghiệp
Ngoài các hiệp định nêu trên, V i ệ t Nam đang chuẩn bị gấp rút để gia
nhập WTO.
Luật Doanh nghiệp thống nhất phải đảm bảo sự phù hợp của
các quy định trong Luật với các hiệp định đã cam kết và với các nguyên tắc
của WTO. T u y nhiên, k h i so sánh các quy định của bản dự thảo Luật Doanh
nghiệp thống nhất v ớ i các thỏa thuận của CA, BPPI và FPPI, cũng như với
các nguyên tắc pháp lý cơ bản của WTO, vẫn một số hữn chế trong dự thảo
Luật Doanh nghiệp thống nhất:
i) Nguyên tắc t ố i huệ quốc (MFN): dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất
chưa thể hiện việc Việt Nam dành cho các nhà đầu tư châu  u sự đối
xửa không kém thuận lợi hem so với sự đối xử m à Việt Nam dành cho
những nhà đầu tư bất kỳ quốc gia nào khác.
li) Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): dự thảo Luật Doanh nghiệp thống
nhất hiện chưa đề cập đến vấn đề dối xử quốc gia một cách rõ ràng.
iii) Tính m i n h bữch: dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất không có điều
khoản chi tiết điều chỉnh các vấn đề về tính m i n h bữch.
li. NHỮNG ĐỂ XUẤT ĐỂ XÂY DỰNG LDNTN
D ự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 sẽ dược trình lên Quốc
hội thông qua trong tháng li. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh
những điểm tích cực và những tồn tữi của D ự thảo Luật Doanh nghiệp thống
nhất, D ự thảo luật lần này vẫn là một tín hiệu đáng mừng trong những nỗ
lực của chính phủ V i ệ t Nam nhằm cải thiện môi trường pháp luật doanh
nghiệp nói riêng và môi trường kinh doanh nói chung. Qua quá trình nghiên
cứu, tác giả Khóa luận có một số để xuất, kiến nghị với mong muốn đóng
góp thêm ý kiến song song với việc soữn thảo Luật Doanh nghiệp thống
nhất 2005.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT
61
Khóa luận tốt nghiệp
1. Những lưu ý khi soạn thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất
- Việc đưa doanh nghiệp nhà nước vào thực hiện theo Luật Doanh
nghiệp thống nhất cần phải có cách giải quyết hợp lý đảm bảo được kinh tế
nhà nước là k h u vực kinh tế chủ đạo của nền kinh tế quốc dân theo đúng
tinh thần của Hiến pháp nước cộng hòa xã h ộ i chủ nghĩa V i ệ t Nam năm
1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 n ă m 2001 của Quốc hội khóa X, kồ họp thứ 10.
- Soạn thảo và thực thi Luật Doanh nghiệp thống nhất cần phải đi đôi
và đồng bộ v ố i các luật khác trong hệ thống luật kinh tế như Luật Đ ầ u tư
nước ngoài, Luật Cạnh tranh... Pháp luật về kinh tế nước ta hiện nay đang
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, cho nên Luật Doanh nghiệp thống
nhất ra đời sẽ là hạt nhân của pháp luật kinh tế về doanh nghiệp và hệ thống
pháp luật kinh tế đòi hỏi phải có sự thống nhất, đồng bộ giữa các nhân t ố
của hệ thống.
- D ự thảo Luật Doanh nghiệp cần đưa ra l ộ trình hợp lý để các Công ty
nhà nước phải chuyển đổi thành công ty T N H H hoặc công ty cổ phần để tạo
môi trường hoạt động thật sự bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Hiện nay doanh nghiệp nhà nước chưa
phải là công t y trách nhiệm hữu hạn hoặc công t y cổ phần, nên chưa thuộc
đối tượng áp dụng và phạm v i điều chỉnh của luật này. Cho nên cần phải có
quy định thời hạn nhằm buộc các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi
thành công ty T N H H hoặc công ty cổ phần để áp dụng theo Luật Doanh
nghiệp thống nhất. Cần lưu ý là l ộ trình này (3 n ă m hay 4 năm,...) phải
được đặt ra căn cứ vào tình hình thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước, như vậy m ớ i có thể đảm bảo việc thực hiện chuyển đổi đúng k ế
hoạch.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT
62