Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 96 trang )
2
đình phải gánh vác công việc của gia đình lo cho cuộc sống gia đình song song
cùng lúc với công việc ngoài xã hội.
Như vậy với bối cảnh như trên, tại sao lại quan tâm đến sự cân bằng giữa
công việc và cuộc sống, không phải đến thời điểm hiện tại thì chúng ta mới quan
tâm đến làm sao để cân bằng nó, từ rất lâu các tại các nước công nghiệp phát triển,
các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng đã thật sự quan tâm và nghiên cứu bàn luận để
tìm ra giải pháp để cân bằng công việc và cuộc sống, nâng cao đời sống tinh thần,
của mỗi cá nhân trong công việc và cuộc sống của họ.
Theo nghiên cứu trong hai mươi lăm năm qua của các nhà nghiên cứu đã tìm
cách khám phá và hiểu rõ hơn về rất nhiều hướng, trong đó vai trò công việc và
công việc tác động lẫn nhau (Barling & Sorensen, 1997; Greenhaus & Parasuraman,
1999). Vai trò công việc và cuộc sống có thể có một tác động có ý nghĩa về tâm lý,
hạnh phúc và sự hài lòng (Kossek & Ozeki, 1998; Schultheiss, 2006; Schwartzberg
& Dytell, 1996), vì cả hai vai trò là thành phần trung tâm trong cuộc sống của con
người và do đó đòi hỏi tiêu hao một lượng lớn thời gian và năng lượng. Trong các
tài liệu công việc – cuộc sống đã có một số lượng không cân xứng có tác động đến
tiêu cực của việc một cá nhân đồng thời quản lý với vai trò công việc và gia đình
(Barnett, 1998; Greenhaus & Parasuraman, 1999; Haas, 1999). Ngoài ra, hầu hết tài
liệu về các mối quan hệ công việc và gia đình ít quan tâm nhiều hơn đến những ảnh
hưởng tích cực của việc kết hợp vai trò của công việc và gia đình (Greenhaus &
Powell, 2006).
Theo (Susi.S, 2010) cân bằng cuộc sống làm việc là động lực cho sự hài lòng
của nhân viên. Nhiều tổ chức cảm thấy sự cần thiết của cuộc sống cân bằng công
việc trong đó bao gồm duy trì lực lượng lao động có giá trị, giảm xung đột trong
công việc và cuộc sống và giảm căng thẳng của nhân viên, việc làm hài lòng và cân
bằng cuộc sống tốt hơn.
Đa số mối liên hệ giữa công việc và gia đình chỉ được nghiên cứu theo chiều
hướng tiêu cực mà hầu hết các nhà nghiên cứu trước đây quan tâm đó là xung đột
3
trong công việc và gia đình. Xung đột công việc - gia đình đã được nghiên cứu rộng
rãi và có liên quan đến kết quả như sự hài lòng thấp hơn và gia tăng căng thẳng
trong vai trò công việc và gia đình (Bedeian, Burke, và Moffett, 1988; Adams,
King, và King năm 1996; Netemeyer, Boles, & McMurrian năm 1996; Perrewe,
Hochwarter, và Kiewitz, 1999).
Cân bằng công việc và cuộc sống luôn luôn là một mối quan tâm của những
người quan tâm đến chất lượng cuộc sống, công việc và mối quan hệ rộng lớn hơn
đến chất lượng của cuộc sống. Trong những ngày đầu của cuộc cách mạng công
nghiệp ở châu Âu (và hiện nay ở một số nơi trên thế giới tại các nước đang phát
triển) nó là mối quan tâm chủ yếu là với các tác động của lao động trẻ (David E
Guest 2001). Trong thời kỳ suy thoái và hiện nay tại nhiều nơi ở châu Âu, người ta
lo ngại với tình trạng thiếu việc làm và hậu quả của nó, bằng đồ thị đã minh họa
trong tác phẩm đầu tay của Jahoda (1992) tại Marienthal và nghiên cứu trong nhiều
ngữ cảnh cho đến ngày nay.
Ba độ rộng của sự chồng chéo các ảnh hưởng có thể được xác định, những
người có liên quan với sự phát triển trong công việc có thể được coi là gây ra vấn đề
mất cân bằng công việc và cuộc sống, ngược lại những người liên quan đến cuộc
sống bên ngoài công việc mà có thể được xem như là hậu quả của sự mất cân bằng
trong công việc và cuộc sống; và những người liên quan các cá nhân và cuộc sống
của họ mà cung cấp cho sự cần thiết phải giải quyết những thách thức trong việc
cân bằng công việc và cuộc sống gia đình là một vấn đề chính sách hiện đại (David
E Guest 2001).
Nhân viên tham gia làm việc tại tổ chức phải xác định rõ được các yếu tố ảnh
hưởng đến việc cân bằng công việc và cuộc sống của mình, làm cách nào để có
được sự hài lòng trong công việc trong quá trình tham gia công việc, tâm lý khi
được tổ chức trao quyền tự quyết, khả năng về năng lực của bản thân từ đó có sự
cam kết với tổ chức để gắn bó làm việc lâu dài hơn.
4
Theo như “Bond, Galinsky, và Swanberg (1998) nghiên cứu rằng số lượng
các công việc và cuộc sống hoàn thành và thời gian dành cho việc chăm sóc trẻ em
tiếp tục có sự khác biệt giữa nam giới và phụ nữ, phụ nữ dành nhiều thời gian quản
lý các trách nhiệm liên quan đến gia đình nhiều hơn nam giới. Với sự kết hợp của
những tiến bộ chuyên môn thực hiện trong 50 năm qua và thực tế là phụ nữ tiếp tục
chịu trách nhiệm cho một số lượng không cân xứng của công việc trong nhà, trong
đó có trách nhiệm chăm sóc, đã có một sự bùng nổ trong tỷ lệ phụ nữ quản lý nhiều
vai trò.
Hiện đề tài tác động của cân bằng công việc và gia đình dẫn đến sự gắn bó
của nhân viên kế toán trong doanh nghiệp chưa có nhiều tác giả hay báo cáo khoa
học nghiên cứu chính thức tại Việt Nam.
Nghiên cứu của tác giả muốn làm rõ tác động của tham gia vào công việc
ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống, cách giải quyết xung đột
công việc và nhu cầu không làm việc để cân bằng giữa công việc và cuộc sống, sự
hài lòng trong công việc tác động đến cam kết với tổ chức của nhân viên kế toán
làm việc trong văn phòng tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Lý do tác giả chọn phạm vi nghiên cứu ở Thành phố Hồ Chí Minh vì đây là
khu vực tập trung nhiều lao động, mật độ dân số cao, các doanh nghiệp, tổ chức tập
trung nhiều, nên dễ dàng cho việc khảo sát và thăm dò ý kiến người lao động, tỷ lệ
nhân viên kế toán làm việc trong doanh nghiệp chiếm đa số và tập trung. Điều quan
trọng nhất là do Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố có tốc độ phát triển về công
nghiệp và dịch vụ gần như cao nhất nước, do đó người lao động tập trung cao và
yêu cầu thời gian tập trung cho công việc nhiều hơn dẫn đến sự mất cân đối giữa
thời gian dành cho công việc và thời gian cho bản thân và gia đình.
Các đề tài trước đây đa số nghiên cứu về xung đột công việc và cuộc sống
dẫn đến chuyển việc hoặc nghỉ việc mà chưa nghiên cứu đến các yếu tố tác động
của cân bằng công việc và cuộc sống và sự hài lòng trong công việc của nhân viên
với doanh nghiệp. Nên tác giả muốn nghiên cứu theo chiều hướng tích cực hơn,
5
đánh giá tác động của cân bằng công việc và cuộc sống đến sự hài lòng trong công
việc và cam kết với tổ chức của nhân viên. Nên tác giả chọn đề tài “Tác động của
cân bằng công việc và cuộc sống đến sự hài lòng trong công việc và cam kết với tổ
chức của nhân viên kế toán làm việc trong các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí
Minh” để thực hiện nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm định tác động của cân bằng công việc và cuộc sống dẫn đến sự hài lòng trong
công việc và cam kết với tổ chức của nhân viên kế toán
Kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố S
Đưa ra một số hàm ý chính sách cho các doanh nghiệp nhằm sử dụng lao động một
cách có hiệu quả.
1.3 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: tác động của cân bằng công việc và cuộc sống dẫn
đến sự hài lòng trong công việc và cam kết với tổ chức của nhân viên kế toán
Để kiểm tra đầy đủ hơn mô hình tham gia công việc ảnh hưởng của cân bằng
công việc và cuộc sống đến sự hài lòng trong công việc trình bày trong nghiên cứu
này, các cá nhân tham gia bao gồm những nhân viên kế toán làm việc tại các doanh
nghiệp; những người đang trong quá trình cân bằng nhiều vai trò.
Trong nền kinh tế khó khăn như hiện tại, sự cạnh tranh và tồn tại giữa các
doanh nghiệp cũng trở nên gay gắt hơn. Vì vậy mà mỗi doanh nghiệp phải tìm cho
mình những giải pháp tốt nhất để có thể tồn tại và ngày càng phát triển. Để làm
được những điều đó nhất định phải có một đội ngũ nhân viên có năng lực, nhất là
một kế toán giỏi để có thể cân bằng tình hình tài chính cho công ty của mình. Trong
mọi doanh nghiệp từ tư nhân đến doanh nghiệp nhà nước đều cần đến vị trí kế toán
để thu thập, xử lý các vấn đề liên quan đến tài chính cũng như tình hình hoạt động
của công ty. Ở những nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của người kế toán càng
được đánh giá cao hơn vì họ chính là những người góp phần xây dựng một nền kinh
6
tế bền vững. Nhắc đến kế toán không chỉ đơn thuần là nói đến tiền và những con số
mà còn là những vấn đề quan trọng khác nữa. Trong môi trường kinh tế năng động
này, kế toán phải có kiến thức sâu rộng, nhạy bén để có thể ứng phó với mọi điều có
gặp phải trong công việc.
Vai trò của bộ máy kế toán trong doanh nghiệp rất quan trọng, kế toán đảm
nhận việc kích thích và điều tiết các hoạt động kinh doanh. Kế toán là những người
duy trì và phát triển các mối liên kết trong doanh nghiệp, mọi bộ phận trong doanh
nghiệp đều liên quan đến kế toán, từ khâu kinh doanh đến hành chánh nhân sự.
Nhờ những tài liệu mà kế toán cung cấp mà các doanh nghiệp có thể thường
xuyên theo dõi cũng như nắm bắt được tình hình hoạt động, sản xuất, kinh doanh
của mình. Như vậy, chủ doanh nghiệp có thể quản lý và điều hành các hoạt động có
hiệu quả hơn cũng như định ra những điều cần phải làm cho mỗi cá nhân, cho từng
giai đoạn trong hiện tại và trong cả tương lai. Đây là lý do để tác giả chọn đối tượng
nghiên cứu là nhân viên kế toán làm việc trong các doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Thu thập thông tin thông qua khảo sát bằng bản câu
hỏi cho khoảng 200 mẫu điều tra đối tượng khảo sát là nhân viên kế toán tại hơn 20
doanh nghiệp thuộc ngành thương mại và dịch vụ từ cấp quản lý phòng ban và nhân
viên bình thường trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để
khách quan hơn trong công tác chọn mẫu.
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính và định lượng để phân tích.
Bước thứ nhất : Phân tích định tính được thực hiện trên cơ sở xây dựng các
lý thuyết về sự cân bằng trong công việc và cuộc sống thông qua các việc hiệu
chỉnh các thang đo cho phù hợp.
Bước thứ hai: Phân tích định lượng được thực hiện thông qua việc áp dụng
các mô hình hồi quy tương quan để đánh giá tác động cân bằng công việc và cuộc
7
sống đến sự gắn bó với doanh nghiệp của nhân viên kế toán làm việc trong các doanh
nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cùng với những thông tin sơ cấp được thu thập qua khảo sát điều tra mẫu
nghiên cứu. Thông tin thứ cấp được thu thập và tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau
về chính sách của Nhà nước liên quan đến ngành nghề hoạt động kinh doanh, chính
sách lao động tiền lương, phụ cấp và kiến thức của tác giả đúc kết được trong quá
trình học tập tại trường.
1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Gợi ý một số giải pháp quản trị giúp cho doanh nghiệp có thể cân đối lại về
khối lượng công việc, sắp xếp công việc theo những cách khác nhau linh động về
thời gian, có các chế độ phúc lợi cho nhân viên, các chương trình hỗ trợ cho nhân
viên…tạo điều kiện để nhân viên có thời gian cân đối giữa công việc và cuộc sống
tạo điều kiện thuận lợi cho họ giảm bớt căn thẳng, áp lực công việc, không có ý
định sẽ thay đổi nơi làm việc và từ đó họ có tin thần thoải mái phát huy hết khả
năng để đạt được hiệu quả trong công việc và an tâm gắn bó lâu dài với doanh
nghiệp.
1.6 Bố cục của luận văn
Chƣơng 1: Trình bày tổng quan về đề tài nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu,
mục tiêu nghiên cứu, phạm vi, giới hạn, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa thực
tiễn của nghiên cứu.
Chƣơng 2: Trình bày cơ sở lý thuyết về các khái niệm nghiên cứu và xây
dựng các giả thuyết nghiên cứu, phần này đưa ra khái niệm liên quan tới cân bằng
công việc – cuộc sống, sự hài lòng công việc, cam kết tổ chức và các mối quan hệ
xung quanh các khái niệm này. Sau đó là xây dựng mô hình nghiên cứu.
Chƣơng 3: Trình bày phương pháp nghiên cứu và xử lý số liệu trong đó quy
trình nghiên cứu gồm hai gia đoạn, nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức với sự
hỗ trợ của phần mềm SPSS.
8
Chƣơng 4: Trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận kết quả nghiên cứu.
Chƣơng 5: Tóm tắt những kết quả chính của nghiên cứu, những đóng góp,
hàm ý chính sách của nghiên cứu cho nhà quản trị doanh nghiệp cũng như các hạn
chế của nghiên cứu để định hướng cho nghiên cứu tiếp theo.
9
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Chương 2 sẽ trình bày về tổng quan lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu
bao gồm các khái niệm trong mô hình nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và một số
nghiên cứu gần đây về những đề tài tương tự.
2.1 Một số lý luận về Cân bằng công việc – cuộc sống
2.1.1 Khái niệm về Cân bằng công việc và cuộc sống
Có rất nhiều định nghĩa về sự cân bằng công việc và cuộc sống, tác giả thực
hiện trích dẫn đưa ra một số khái niệm gần nhất với đề tài nghiên cứu của mình.
Các khái niệm cân bằng công việc và cuộc sống đã đạt được tầm quan trọng
rất cao trong những năm gần đây. Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển và thay đổi
tại nơi làm việc như những tiến bộ trong công nghệ thông tin và quá tải thông tin
đòi hỏi phản ứng nhanh chóng và thay đổi với một tốc độ nhanh chóng tăng áp lực
đối với người lao động (Guest, 2002). Tiếp theo đó, cũng phát triển và thay đổi
trong cuộc sống ngoài công việc có thể được xem như là nguồn gốc của sự mất cân
bằng trong công việc. Đặc biệt, biến đổi trong môi trường kinh tế xã hội và những
thay đổi trong khả năng mở rộng về công nghệ liên quan đến đâu và khi công việc
được thực hiện là nguyên nhân của sự mất cân bằng giữa công việc và trách nhiệm
gia đình. Hơn nữa, sự chuyển đổi từ hình ảnh của "gia đình truyền thống" hướng tới
sự xuất hiện ngày càng nhiều gia đình mẹ độc thân và sự tham gia lớn hơn của phụ
nữ trong lực lượng lao động đại diện cho yếu tố yêu cầu một sự cân bằng công việccuộc sống lớn hơn giữa các nhân viên (Guest, 2002).
Greenblatt (2002, p. 179) mô tả cân bằng công việc và cuộc sống như "sự
vắng mặt của mức không thể chấp nhận các cuộc xung đột giữa công việc và nhu
cầu không làm việc" cho thấy rằng khi nhu cầu từ công việc và không làm việc bị
đối lập, xung đột có thể xảy ra. Định nghĩa này nhấn mạnh thêm một nghi
ngờ/không chắc chắn. Trong khi đó, ý nghĩa của khái niệm có thể được phần nào
thu hẹp xuống "là một hoạt động liên quan đến nỗ lực tinh thần hoặc thể chất thực
hiện để đạt được một kết quả" (điển Oxford, 2012) ví dụ: để kiếm sống, thuật ngữ
10
yêu cầu không làm việc trong định nghĩa Greenblatt là khá rộng và có thể có nghĩa
là bất cứ điều gì ngoại trừ công việc. Do những thiếu sót, một số tác giả vẫn ưu ái
sử dụng ví dụ như cân bằng công việc cuộc sống gia đình, cân bằng công việc cuộc
sống hay tiêu cực lan toả công việc tới từng nhà để thu hẹp cuộc sống (ví dụ như
Galinsky, Bond & Friedman năm 1993; Guest, 2002;. Hill et al, 2001; Maume &
Houston, 2001). Vì lợi ích của nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng các định nghĩa
của Clark (2000, p. 751), là người thấy cân bằng công việc và cuộc sống như "sự
hài lòng và hoạt động tốt trong công việc và gia đình với mức tối thiểu của cuộc
xung đột vai trò."
Mở rộng, cân bằng công việc gia đình theo Frone chỉ ra rằng công việc của
một cá nhân và cuộc sống gia đình trải qua các xung đột nhỏ để tiến tới các thành
công trong việc kết hợp tốt hai khía cạnh này. Trong mỗi khía cạnh đều tồn tại các
xung đột giữa việc làm tốt khía cạnh này sẽ có thể ảnh hưởng tới khía cạnh kia nếu
như không biết cạnh cân bằng hoặc không thể cân bằng được công việc và gia đình.
Tuy nhiên, với mỗi lần xảy ra xung đột nhỏ đều rút ra kinh nghiệm để tiến tới cân
bằng hơn trong công việc và gia đình(Frone, 2003).
Cũng có quan niệm cho rằng cân bằng công việc gia đình là một công cụ để
đánh giá các nguồn lực thực hiện công việc để đáp ứng nhu cầu gia đình như thế nào
(Voydanoff, 2005).Tương tự như vậy, những tác giả khác xem sự cân bằng trong việc
tự đánh giá hiệu quả của một cá nhân, sự hài lòng của họ với công việc và cuộc sống
gia đình. Việc một cá nhân không thể làm tốt công việc và không phát triển gia đình
được cho thấy năng lực của cá nhân chưa tốt, chưa biết cách cân bằng công việc và
gia đình (Greenhaus & Allen; Valcour , 2007).
Thêm định nghĩa liên quan đến cân bằng công việc và gia đình của Greenhaus
và cộng sự (2006) vì đây là định nghĩa được nhiều tác giả đề cập vì mang tính chung
nhất và phù hợp đối với nhân viên/người lao động Việt Nam. Do tính cần cù chịu khó
mà họ có thể bỏ qua những xung đột về vai trò trong công việc và gia đình, họ điều
tiết bản thân để hướng tới mục đích tốt đẹp là cân bằng giữa các vai trò trong công