Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 77 trang )
Đồ án tốt nghiệp
độ là không đáng kể, các thủy vực bị ô nhiễm thì chỉ số BMWP phụ thuộc nhiều
vào nhiệt độ, còn đối với chỉ số ASPT thì không phụ thuộc vào nhiệt độ ngay cả
khu vực ô nhiễm hay không ô nhiễm [13].
1.2.1.3.
Ở New Zeland
Các nhà nghiên cứu đã tiếp nhận hệ thống điểm số BMWP và phát triển
chúng cho phù hợp với đất nước mình, chỉ số được biến đổi gọi là MCI
(Macroinvertebrate Community Index) tương tự như điểm trung bình bậc phân loại
ASPT của Anh.
Ngoài ra, hệ thống điểm số BMWP còn được ứng dụng và đạt hiệu quả cao
trong việc đánh giá chất lượng nước sông ở một số các nước như Thụy Điển, Bồ
Đào Nha, Braxin, Italia, Pháp [13].
1.2.1.4.
Ở Ấn Độ
Ở Ấn Độ, năm 1994 De Zwart và Trivedi đã chuyển đổi điểm số BMWP cho
phù hợp với Ấn Độ là loại ra một số họ không có và thêm vào một số họ có ở Ấn
Độ. Một vài điểm số đã được phân phối trong điểm gốc cũng được thay thế để phản
ánh các mức độ khác nhau về sự chống chịu của các họ nhất định đã tìm thấy tại các
cửa sông của Ấn Độ [8].
Một nghiên cứu sử dụng điểm số BMWP khác do Bihar nghiên cứu ở sông
Ramjan nhận thấy các thông số lý hóa biến động theo mùa, nó sẽ ảnh hưởng đến độ
phong phú của ĐVKXS cỡ lớn và cũng nhận thấy kích thước quần thể ĐVKXS cỡ
lớn cũng tương quan nghịch với thông số pH và DO.
Sabib nghiên cứu Shendumi nhận định rằng dựa vào kích thước quần thể
ĐVKXS cỡ lớn có thể xác định được tình trạng chất lượng nước sông, hồ.
Maruthaynayagan và các cộng sự nghiên cứu ở hồ Thirukulam thì khẳng định kích
thước quần thể ĐVKXS phụ thuộc vào mùa, cao nhất vào mùa mưa và thấp nhất
vào mùa hè [13].
8
Đồ án tốt nghiệp
1.2.1.5.
Ở Thái Lan
Năm 1977 Mustow đã nghiên cứu quần xã ĐVKXS cỡ lớn ở 23 điểm thuộc
sông MaePing và đưa ra một số thay đổi phù hợp với điều kiện ở Bắc Thái Lan. Kết
quả nghiên cứu cho thấy có những họ ở Thái Lan thì không có trong bảng gốc của
Anh, cũng có họ vừa có ở cả Thái Lan và Anh. Từ đó ông đã đề nghị sửa đổi 10 họ
cần điều chỉnh, Mustow nhận thấy BMWP cho điểm họ Odonata là cao sẽ không
phản ánh chính xác mối liên hệ với sự chống ô nhiễm ở Thái Lan nên đã hạ điểm
của họ này từ 8 điểm xuống 6 điểm, còn họ Thiaridae chống chịu ô nhiễm tốt nên
cho 3 điểm. Hệ thống BMWP được sửa đổi ở Thái Lan được gọi là hệ thống
BMWPT HAI.
Hệ thống BMWP T HAI đã được nghiên cứu, ứng dụng và phát triển thêm qua
cuộc “nghiên cứu sự tương quan giữa ĐVKXS cỡ lớn ở nước ngọt và các yếu tố
chất lượng môi trường trong lưu vực sông Nam Pong Thái Lan” do Khoa Sinh học
của Đại học Khon Kaen thực hiện vào năm 1998. Mục đích nhằm nghiên cứu những
ảnh hưởng của chất lượng môi trường nước đến quần xã ĐVKXS cỡ lớn sống trong
môi trường nước đó [8].
1.2.1.6.
Ở Malaysia
Một cuộc nghiên cứu ở Malaysia vào năm 1999 do Bộ Môi trường Malaysia
thực hiện trên sông Linggi nhằm đánh giá tiềm năng của việc sử dụng ĐVKXS cỡ
lớn trong việc đánh giá, giám sát chất lượng nước. Năm trạm thu mẫu đã được thiết
lập nhằm nghiên cứu chất lượng nước tại các khu vực khác nhau. Kết quả nghiên
cứu cho thấy chất lượng nước giảm dần khi ở hạ nguồn, cùng với kết quả là chỉ số
đa dạng và chỉ số phong phú cũng cao ở thượng nguồn và thấp ở hạ nguồn. Các
nhóm chống chịu như Chironomidae, Tubificidae, Lumbriculidae có mặt hầu hết
các trạm, nó thể hiện sự tương quan nghịch với chất lượng nước. Các nhóm nhạy
cảm cũng có chỉ số đa dạng rất cao như các họ họ Ephemeroptera, Plecoptera,
Trichoptera.
9
Đồ án tốt nghiệp
Cùng thời điểm này, Khoa Sinh học trường Đại học Putra cũng tiến hành
nghiên cứu sử dụng hệ thống BMWP để đánh giá chất lượng sông Langat với 4 khu
vực lấy mẫu ở thượng nguồn và 4 khu vực lấy mẫu ở hạ nguồn. Kết quả nghiên cứu
cho thấy ở thượng nguồn thu được 54 loài còn ở hạ nguồn thu được 49 loài, chất
lượng nước sông cũng giảm dần khi chảy đến hạ nguồn do chịu ảnh hưởng của
nguồn ô nhiễm từ khu dân cư [13].
1.2.2. Ở Việt Nam
Việc nghiên cứu, đánh giá mức độ ô nhiễm các thủy vực ở Việt Nam đã được
quan tâm từ lâu nhưng đến năm 1995 vẫn chưa có hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn
các thủy vực. Các hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn cùng với những chỉ tiêu trong
các thang bậc phân loại đều là những dẫn liệu nghiên cứu ở vùng ôn đới, hoàn toàn
khác với điều kiện tự nhiên cũng như đặc tính sinh học của các thủy vực ở nước ta.
Trên cơ sở nghiên cứu trong 10 năm (1985 - 1995) cùng với dẫn liệu đã biết trước
đây về các thủy vực có nước thải vùng Hà Nội, Nguyễn Xuân Quýnh (1995) đã đề
xuất một hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn các thủy vực có nước thải ở Hà Nội dựa
trên một số chỉ tiêu cơ bản về sinh học. Kèm theo nó là các chỉ tiêu lý hóa học quy
định sự có mặt hay vắng mặt của một số loài hay nhóm loài ĐVKXS cỡ lớn được
coi như sinh vật chỉ thị, quy định sự phát triển về số lượng và khối lượng của chúng
ở mức độ khác nhau từ những kết quả thu được, tác giả nhận định rằng ĐVKXS cỡ
lớn chỉ thị tốt cho mức độ ô nhiễm các thủy vực. Thông qua đây tác giả cũng đưa
nhận xét về mối liên quan giữa mức độ ô nhiễm thủy vực và các chỉ tiêu lý hóa, sinh
học như sau:
Mức độ ô nhiễm thủy vực tăng thì giá trị BOD 5 tăng, COD tăng, hàm lượng
DO giảm, thành phần loài và số lượng ĐVKXS giảm.
Mức độ nhiễm bẩn thủy vực ít thì hàm lượng DO cao, COD, BOD 5 thấp,
thủy vực có điều kiện dinh dưỡng vừa phải tạo điều kiện cho ĐVKXS phát triển tốt.
Từ năm 1997 đến năm 1999, với sự tài trợ của quỹ Darwin của chính phủ
Anh, hội nghiên cứu thực địa và sinh thái nước ngọt Anh Quốc đã phối hợp với
10
Đồ án tốt nghiệp
Khoa Sinh học trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội thực
hiện chương trình nghiên cứu “ Bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc sử dụng
ĐVKXS cỡ lớn làm vi sinh vật chỉ thị quan trắc và đánh giá chất lượng nước ở Việt
Nam”.
Từ năm 1999 đến năm 2000, Steve Tilling nghiên cứu dữ liệu ban đầu và xây
dựng quy trình quan trắc, điều chỉnh hệ thống tính điểm BMWP cho phù hợp với
Việt Nam và hệ thống đó được gọi là BMWP VIET .
Những nghiên cứu đầu tiên được các nhà sinh học Khoa Sinh học trường Đại
học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện ở các khu vực phía Bắc
và khu vực phía Nam Việt Nam. Phía Bắc, các địa điểm lấy mẫu từ con suối chảy ra
từ núi Tam Đảo ra khu vực đồng bằng và cuối cùng đổ ra sông Cầu tiếp nơi tiếp
nhận các nguồn thải từ các thành phố, thị trấn. Ở phía Nam, các địa điểm lấy mẫu
nằm trong và xung quanh thành phố Đà Lạt, các điểm thuộc suối Đac Ta Jun và các
điểm thuộc sông Đa Nhim [8].
Bên cạnh các nghiên cứu theo địa hình dạng suối thì Ngô Xuân Quảng
(2001) đã tiến hành nghiên cứu và đánh chất lượng môi trường nước bằng hệ thống
chỉ số BMWP và ASPT Việt dòng sông Nhuệ, Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy
hệ thống chỉ số này của Động vật không xương sống cỡ lớn không những đánh giá
chính xác chất lượng nước ở địa hình suối mà còn rất phù hợp với điều kiên sông
ngòi đồng bằng [10].
Năm 2001 – 2002, Nguyễn Vũ Thanh và Tạ Huy Thịnh thuộc Viện Sinh thái
và Tài nguyên Sinh vật đã thực hiện nghiên cứu tại 28 điểm quan trắc thuộc lưu vực
sông Cầu tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Qua nghiên cứu
nước tại 28 điểm quan trắc đều thuộc loại ô nhiễm vừa đến ô nhiễm nặng, những
loài đại diện cho môi trường nước sạch như bộ cánh úp đã không được tìm thấy ở
đây khẳng định môi trường nước ở đây đang bị tác động nghiêm trọng. Ngoài kết
quả nghiên cứu tác giả còn bổ sung thêm 7 họ mới vào bảng điểm BMPT VIET bao
gồm 5 họ côn trùng thủy sinh Ecdyonuridae, Polymitarcyidae, Sciomyzidae,
Muscidae và 2 họ thân mềm Stenothyridae và Hyalidae [12].
11
Đồ án tốt nghiệp
Năm 2002, tác giả Nguyễn Vũ Thanh, Tạ Huy Thịnh, Phạm Đình Trọng
thuộc Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật cùng với tác giả Đoàn Cảnh thuộc Viện
Sinh học nhiệt đới đã thực hiện quan trắc và đánh giá chất lượng nước của hệ sinh
thái đất ngập nước ở các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Tháp Mười bằng phương pháp
BMWP. Về côn trùng thủy sinh, kết quả quan trắc đã thu được 29 họ thuộc 7 bộ côn
trùng (cánh nửa, cánh cứng, chuồn chuồn, hai cánh, cánh lông, phù du và cánh
rộng).Về động vật đáy cỡ lớn ngoài côn trùng, kết quả bao gồm 40 loài thuộc 27
giống, 19 họ, 5 lớp, 3 ngành (Giun đốt, Chân đốt và Thân mềm). Trong thành phần
loài khảo sát bắt gặp 13 họ Động Vật Đáy lần đầu tiên được phát hiện cho hệ Động
Vật Đáy ở vùng đất ngập nước Đồng Tháp Mười và chúng được bổ sung vào bảng
điểm BMWP Việt Nam, trong đó đại diện của 7 họ Côn trùng, 2 họ Giáp xiác, 3 họ
Giun nhiều tơ và 1 họ Giun ít tơ. Kết quả đánh giá chất lượng nước dựa trên chỉ số
ASPT xác định có 6 trạm quan trắc nước ở mức độ ô nhiễm nặng (Polysaprobe),
còn ở 27 trạm quan trắc còn lại nước ở mức ô nhiễm (α Mesosaprobe) [3].
Năm 2006, tác giả Trương Thanh Cảnh và Ngô Thị Trâm Anh thuộc Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM tiến hành khảo sát thành phần ĐVKXS
cỡ lớn của 4 hệ thống kênh chính của TP.HCM (Tham Lương – Vàm Thuật, Nhiêu
Lộc – Thị Nghè, kênh Đôi – Tẻ - Tàu Hủ - Bến Nghé, hệ thống sông khu vực Nam
Sài Gòn). Kết quả nghiên cứu đã phát hiện được 28 họ ĐVKXS cỡ lớn và việc đánh
giá chất lượng nước tại 4 hệ thống kênh này cho thấy nước kênh bị ô nhiễm từ mức
độ trung bình đến rất bẩn [1].
Năm 2008, tác giả Ngô Xuân Quảng công bố kết quả nghiên cứu về đa dạng
sinh học quần xã Động vật không xương sống và đánh giá chất lượng môi trường
nước hệ thống các con suối ở Vườn Quốc Gia Núi Chúa, tỉnh Ninh Thuận [6].
Tại khu vực miền Trung vào năm 2010, Nguyễn Văn Khánh và Trần Ngọc
Sơn đã ứng dụng hệ thống quan trắc sinh học BMWP VIET giám sát chất lượng môi
trường nước sông ở TP. Đà Nẵng. Địa điểm nghiên cứu tại 2 nơi là sông Cu Đê và
sông Túy Loan – Cầu Đỏ. Kết quả khảo sát cho thấy hệ ĐVKXS sông Cu Đê có 24
họ thuộc 18 bộ và dưới lớp, có 11 họ ĐVKXS cỡ lớn nằm trong hệ thống điểm
12
Đồ án tốt nghiệp
BMWP VIET , có nhiều họ điểm số BMWP cao. Sông Túy Loan – Cầu Đỏ có 20 họ
thuộc 16 bộ và dưới lớp, có 5 họ ĐVKXS cỡ lớn không nằm trong hệ thống điểm
BMWP VIET và có ít họ có điểm số BMWP cao. Dựa trên chỉ số ASPT, chất lượng
nước sông Cu Đê được xếp loại ô nhiễm từ “nước bẩn vừa α (α-Mesosaprobe)” đến
“nước tương đối sạch (Oligosaprobe)”; sông Túy Loan – Cầu Đỏ chất lượng nước ở
mức “Nước bẩn vừa β (β-Mesosaprobe)” đến “Nước bẩn vừa α (α-Mesosaprobe)”.
Các chỉ số sinh học đã phản ánh được hiện trạng chất lượng môi trường nước sông
và cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về những tác động tổng hợp của chất ô
nhiễm đến hệ sinh thái và đời sống sinh vật [15].
Các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy phương pháp quan trắc sinh học
thông qua ĐVKSX cỡ lớn là tối ưu, đã phần nào phát triển và đang ngày càng được
áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Việc sử dụng hệ thống điểm BMWPVIET và chỉ số
ASPT đã nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá chất lượng nước, phục vụ cho
việc công tác quản lý môi trường nước hiệu quả hơn.
13
Đồ án tốt nghiệp
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC KÊNH NHIÊU LỘC THỊ NGHÈ
2.1. Đặc điểm vị trí địa lý
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè nằm trong khu trung tâm của nội thành
TP.HCM, chảy qua địa bàn 5 quận: Tân Bình, Phú Nhuận, Quận 1, Quận 3 và Bình
Thạnh.
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè bắt đầu từ quận Tân Bình chảy đến quận Phú
Nhuận, quận 3, quận 1, quận Bình Thạnh và kết thúc ở sông Sài Gòn (cạnh xưởng
sữa chữa tàu Ba Son) [5].
Lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè có diện tích 3.324 ha nằm trên địa bàn 7
quận nội thành (quận 1, quận 3, quận 10, quận Phú Nhuận, quận Gò Vấp và quận
Tân Bình) tập trung dân cư với mật độ cao vì bao gồm 2 khu vực chính:
+ Khu dân cư quy hoạch (quận 1, quận 3 và một phần quận Phú Nhuận, quận Tân
Bình, quận Bình Thạnh) là khu đô thị với các đặc trưng: mật độ đường giao
thông cao, tương vối có quy hoạch.
+ Khu dân cư tự phát: được hình thành do làn sóng nhập cư từ nông thôn đổ về,
do có tính chất tự phát nên hạ tầng kỹ thuật rất kém, không đáp ứng các tiêu
chuẩn đô thị.
Ranh giới lưu vực được giới hạn bởi các tuyến đường:
+ Phía Bắc : đường băng giữa sân bay Tân Sơn Nhất, ngã năm Gò Vấp.
+ Phía Đông: đường Nơ Trang Long, Lê Quang Định, Xô Viết Nghệ Tĩnh.
+ Phía Nam: Nguyễn Thị Minh Khai, Cao Thắng, 3 Tháng 2, Nguyễn Tri Phương,
Tô Hiến Thành.
+ Phía Tây: Lý Thường Kiệt, Lạc Long Quân, Cách Mạng Tháng 8 [5].
2.2. Đặc điểm khí hậu
14
Đồ án tốt nghiệp
Lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè nằm trong TP.HCM vì vậy khí hậu tại
lưu vực kênh mang đặc điểm khí hậu TP. HCM. TP.HCM bị ảnh hưởng bởi khí hậu
vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo nên có nhiệt độ cao, độ ẩm cao, có nhiều mây,
có tính ổn định cao, thay đổi khí hậu giữa các năm nhỏ, không có thiên tai, hầu như
không có bão lụt, chỉ bị ảnh hưởng nhẹ nhưng không đáng kể.
Các mùa tương tự với khí hậu của miền Nam và có hai mùa rõ rệt: mùa mưa
và mùa khô. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa kéo dài từ
tháng 5 đến tháng 10 [5].
+ Mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và vào mùa đông chịu ảnh
hưởng của gió mùa Tây Bắc. Gió mùa hè thường diễn ra từ tháng 5 đến tháng
tháng 12, 90% lượng nước mưa bình quân đều diễn ra vào mùa này với mức
trung bình là 300 mm/m2 tháng. Mưa hầu như ngày nào cũng có. Nhiệt độ và độ
ẩm cao (nhiệt độ trung bình 32 0C , độ ẩm 79,7%).
+ Gió mùa vào mùa đông thường diễn ra từ tháng 1 đến tháng 3, nhiệt độ thấp
(210C vào tháng 1), độ ẩm thấp hơn và có mưa nhỏ [5].
2.2.1 .
Nhiệt độ không khí
Nhiệt độ không khí ít thay đổi giữa các tháng trong năm, biên độ giao động
trong khoảng 5 - 7 oC, nhiệt độ trung bình năm là 27oC. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa
ban ngày và ban đêm lại tương đối lớn (khoảng 7 - 10oC vào mùa khô và 5 - 9oC
vào mùa mưa) [5].
Bảng 2.1. Thống kê về nhiệt độ tại TP.HCM [5]
Nhiệt độ (oC)
Mô tả
Nhiệt độ trung bình năm
27
Nhiệt độ cao nhất đã từng được ghi nhận
(vào năm 1912)
Nhiệt độ thấp nhất đã từng được ghi nhận
15
40
13,8