1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Công nghệ - Môi trường >

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 77 trang )


Đồ án tốt nghiệp



3. Kết quả khảo sát ĐVĐKSX cỡ lớn với số lượng loài thấp chỉ có 11 loài,

tập trung trong 3 ngành chính: Mollusca (Thân mềm), Annelida (Giun đốt) và

Arthropoda (Chân khớp). Ngành Mollusca (Thân mềm) có số loài cao nhất (5 loài)

trong tổng số 11 loài chiếm 45,5%, kế đến là ngành Annelida (Giun đốt) có 4 loài

chiếm 36,4% và thấp nhất là ngành Arthropoda (Chân khớp) có 2 loài chiếm 18,2%.

Nằm trong hệ thống điểm BMWP VIET có 7 họ ĐVĐKXS cỡ lớn thuộc 4 bộ.

Trong đó, chiếm ưu thế là bộ (lớp) Gastropoda với 2 họ, các bộ còn lại chỉ với 1 họ.

4. Số loài mỗi vị trị khảo sát dao động từ 0 – 7 loài. Kết quả khảo sát thành

phần loài cho thấy các loài chủ yếu phân bố trên nền đáy cát và bùn. Cầu Thị Ngè 2

là điểm có số lượng loài cao nhất có đến 7 loài, kế đến là cầu Thị Ngè với 4 loài,

các điểm còn lại là 2 loài, riêng ở cầu Số 1 không có loài ĐVĐKXS nào.

5. Mật độ cá thể ĐVĐKXS tại các vị trí khảo sát dao động từ 0 - 5916

con/m2. Mật độ cá thể từ vị trí cầu Số 1 đến cầu Kiệu có xu hướng tăng dần nhưng

sau đó lại giảm ở vị trí cầu Bông còn 380 con/m2 rồi lại tăng nhanh về cuối nguồn

và mật độ cá thể cao nhất tại vị trí cầu Thị Ngè 2 với số lượng 5916 con/m2.

6. Loài ưu thế của các vị trí khảo sát tập trung vào 2 loài ưu thế chủ yếu là

Namalycastis longicirris và Limnodrilus hoffmeisteri. Đây là 2 loài giun chống chịu

tốt với môi trường nước bị ô nhiễm biểu hiện cho nguồn nước của kênh bị ô nhiễm

hữu cơ cao.

7. Giá trị chỉ số ASPT dao động trong khoảng 1 – 2,18. Chất lượng nước tại

các vị trí khảo sát được kết luận ở mức rất bẩn (Polysabrobe). Kết quả phù hợp với

hiện trạng khảo sát. Việc sử dụng chỉ số ASPT để đánh giá chất lượng nước tại lưu

vực kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè là thích hợp.

8. Việc đánh giá chất lượng nước thông qua nhóm ĐVĐKXS dựa trên chỉ số

đa dạng sinh học cho thấy:

+ Chỉ số Shannon – Wienner: có ưu điểm thể hiện được tỷ lệ của các loài

nhưng bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ của loài ưu thế.

+ Chỉ số Margalef: cho biết tổng số loài và tổng số cá thể nhưng không thể

hiện được mức độ ảnh hưởng của loài ưu thế và tỷ lệ của các loài.



61



Đồ án tốt nghiệp



Vì vậy, khi sử dụng các chỉ số đa dạng đánh giá chất lượng nước cần phải

quan tâm đến đặc điểm sinh thái của các loài trong quần xã cùng với đặc điểm môi

trường tại vị trí khảo sát.

Kiến nghị

1. Cần nghiên cứu thêm về việc đánh giá chất lượng nước dựa trên các chỉ tiêu

về lý, hóa sinh để so sánh mối tương quan giữa chất lượng nước với các yếu tố môi

trường để nâng cao kết quả chính xác hơn cho việc đánh giá.

2. Đề tài chỉ tiến hành khảo sát nhóm ĐVĐKXS ở đáy trong một đợt vào tháng

thuộc mùa khô của năm, kết quả khảo sát nhận thấy thành phần loài ở kênh thấp, tần

suất xuất hiện một số loài rất ít. Vì việc khảo sát trong thời gian ngắn sẽ khó nhận

biết được loài đó tồn tại trong nước lâu dài hay chỉ trong thời gian tạm thời nên việc

đánh giá chất lượng nước sẽ không tránh sai sót. Vì thế, để kết quả đánh giá chất

lượng nước được khách quan hơn cần thường xuyên khảo sát và việc khảo sát thực

hiện trong khoảng thời gian lâu dài.

3. Hiện nay, trên hệ thống kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã có 2 trạm quan trắc

chất lượng nước nhưng tần suất quan trắc trong năm còn thấp. Vì thế, cần nâng cao

số lần quan trắc để thường xuyên cập nhật những biến đổi về chất lượng nước của

kênh, từ đó có thể đưa ra những giải pháp để giải quyết những vấn đề về môi trường

nước tại kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè một cách hiệu quả và kịp thời.

4. Vận động, tuyên truyền bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố bằng nhiều

hình thức: giáo dục, áp phích, truyền thông…nhằm nâng cao ý thức của con người

trong việc giữ môi trường xanh, sạch, đẹp góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường

cũng như giảm thiễu ô nhiễm nguồn nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè.



62



Đồ án tốt nghiệp



TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ngô Thị Trâm Anh, Trương Thanh Cảnh (2007). Nghiên cứu sử dụng Động vật

không xương Sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước trên 4 hệ thống kênh

chính tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí phát triển KH-CN, 10 (1), 25 -31.

2. Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, Đặng Ngọc Thanh (1980). Định loại động vật

không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà

Nội.

3. Đoàn Cảnh, Nguyễn Vũ Thanh, Tạ Huy Thịnh, Phạm Đình Trọng (2004). Sử

dụng chỉ số sinh học trung bình ASPT để đánh giá nhanh chất lượng nước ở hệ

sinh thái đất ngập nước của vùng Đồng Tháp Mười. Tạp chí Sinh học, 26 (1), 11

– 18.

4. Clive Pinder, Nguyễn Xuân Quýnh, Steven Tilling (2001). Định loại các nhóm

Động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam. Nhà xuất bản

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

5. Nguyễn Hạ Di. Đánh giá tác động các nguồn thải và xây dựng các giải pháp

nâng cao chất lượng nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Đồ án tốt nghiệp, 5/

2013,

http://doc.edu.vn/tai-lieu/do-an-danh-gia-tac-dong-cac-nguon-thai-va-xay-dungcac-giai-phap-nang-cao-chat-luong-nuoc-kenh-nhieu-loc-thi-nghe-11720/

6. Hồ Thanh Hải, Đặng Ngọc Thanh (2001). Động vật chí Việt Nam (tập 5). NXB

Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Sơn. Nghiên cứu ứng dụng Hệ thống quan trắc

sinh học BMWP VIET (Biological Monitoring Working Party) giám sát chất lượng

môi trường nước sông ở thành phố Đà Nẵng, 1/2011,

http://scv.udn.vn/tranngocson/NCKH/2012

8. Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Quýnh (2007). Chỉ thị sinh học môi trường, NXB

Giáo Dục.

63



Đồ án tốt nghiệp



9. Nghiên cứu đánh giá thực trạng ô nhiễm nguồn nước kênh rạch tại kênh Thị

Nghè, 3/2013,

http://tailieu.oha.vn/cong-nghe-va-quan-ly-moi-truong/95/1348/do-an-totnghiep-viec-nghien-cuu-danh-gia-thuc-trang-o-nhiem-nguon-nuoc-kenh-rachtai-kenh-thi-nghe.html

10. Ngô Xuân Quảng (2001). Đa dạng sinh học Động vật không xương sống ở sông

Nhuệ và khả năng sử dụng chúng làm chỉ thị đánh giá chất lượng môi trường

nước. Luận án tốt nghiệp cử nhân khoa học, Đại học khoa học tự nhiên, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

11. Ngô Xuân Quảng (2008). Áp dụng hệ thống chỉ số ASPT cho việc đánh giá chất

lượng môi trường nước các con suối vườn quốc gia Núi Chúa. Tuyển tập công

trình nghiên cứu khoa học công nghệ, Viện Sinh học nhiệt đới.

12. Nguyễn Vũ Thanh, Tạ Huy Thịnh (2001). Sử sụng chỉ số sinh học ASPT đánh

giá nhanh chất lượng sinh học nước ở lưu vực sông Cầu, Tạp chí sinh học, 25,

(9-2003), 1 - 10.

13. Sử dụng động vật không xương sống đánh giá chất lượng nước sông cầu Đỏ tại

TP. Đà Nẵng, 4/ 2013,

http://doc.edu.vn/tai-lieu/de-tai-su-dung-dong-vat-khong-xuong-song-co-londanh-gia-chat-luong-nuoc-song-cau-do-tai-thanh-pho-da-nang-11046/

14. http://dantri.com.vn/xa-hoi/

15. http://hepa.gov.vn

16. http://nld.com.vn

17. http://phapluattp.vn

18. http://vi.wikipedia.org/wiki/kenh-nhieu-loc-thi-nghe

19. tuoitre.vn

Tiếng Anh

20. Arwin V. Provonsha, W.Patrick Mc Cafferty (1981). Aquatic Entomology.

Jones and Bartlett Publishers, inc.



64



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

×