Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 136 trang )
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
Nam khoảng 10 năm trở lại đây, nhưng sức nóng của nó lại lan nhanh hơn bất cứ lĩnh
vực nào khác, thể hiện rõ nhất ở số lượng thuê bao di động tăng nhanh tới chóng mặt.
Có được điều này là nhờ các doanh nghiệp thông tin di động đã thực sự năng động
trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường và sáng tạo trong công tác quảng bá thương hiệu
của mình tới với công chúng. Một trong những công cụ hiệu quả và phổ biến nhất mà
các doanh nghiệp đã và đang sử dụng chính là công cụ khuyến mại.
Trong lĩnh vực viễn thông di động, công cụ khuyến mại thể hiện rõ vai trò khuyến
khích tiêu dùng ở tác động làm tăng lượng thuê bao di động. Theo số liệu thống kê của
Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến hết tháng 2 năm 2010, tổng số thuê bao điện
thoại là 138,15 triệu thuê bao, tăng 61,8% so với cùng thời điểm năm 2009, trong đó số
thuê bao di động toàn ngành chiếm khoảng 85,7%, đạt khoảng 117,4 triệu, tăng 63,3%,
gấp gần 6 lần số thuê bao cố định là 20,75 triệu.10 Sự tăng nhanh của con số thuê bao di
động nằm trong xu hướng luôn luôn tăng của lĩnh vực này, nhưng cũng không thể phủ
nhận tác động rõ rệt của chính sách khuyến mại, giảm giá “nhiệt tình” từ các nhà mạng.
Dưới góc độ dịch vụ viễn thông di động, tác động tăng lượng thuê bao có thể được
nhìn nhận thành hai yếu tố: Tăng lượng thuê bao mới và thu hút trở lại thuê bao rời
mạng.
1.1.1. Tăng số lượng thuê bao hoà mạng mới
Tác động này có được chủ yếu nhờ vào các chương trình khuyến mại hướng vào
đối tượng khách hàng tiềm năng nhằm thuyết phục họ gia nhập mạng. Hiện nay, đối
tượng khách hàng tiềm năng của các doanh nghiệp viễn thông di động thường là khách
hàng của đối thủ cạnh tranh và các đối tượng khách hàng chưa từng sử dụng các dịch
vụ viễn thông. Như đã phân tích ở chương trước, đối với các đối tượng mục tiêu này,
các hãng thường hướng tới sử dụng các hình thức khuyến mại có giá trị nhằm gây ấn
tượng và thúc đẩy hành vi mua sắm dịch vụ của hãng.
10
InfoTV 9(4/3/2010),“Thuê bao di động Việt Nam đã vượt xa số dân”, http://dailyinfo.vn/8-54-125752-Thuebao-di-dong-Viet-Nam-da-vuot-xa-so-dan.html, 10/3/2010.
- 27 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
Các chương trình khuyến mại mà doanh nghiệp dịch vụ di động thường áp dụng
hiện nay cho đối tượng thuê bao mới hoà mạng là: tặng một lượng tiền nhất định vào
trong tài khoản khi hoà mạng (thường thì gấp nhiều lần giá mua gói cước), tặng thêm
giá trị thẻ nạp đối với một số lượng nhất định thẻ nạp đầu tiên cho thuê bao trả trước,
tặng thời gian gọi và tin nhắn cho thuê bao trả sau hoà mạng mới… Ví dụ, Viettel vào
năm 2008 đã có chương trình khuyến mại: hoà mạng mới được tặng 60% cước hoà
mạng, miễn cước thuê bao 6 tháng, kỷ lục của đợt cao trào này mỗi ngày Viettel đã
phát triển được 15.000 thuê bao.11 Những chương trình khuyến mại liên quan tới giá và
tặng thêm giá trị sản phẩm dịch vụ thực sự có ý nghĩa và hiệu quả trong ngành viễn
thông di động, bởi dù sao với mức sống của đa phần người Việt Nam hiện nay, việc
dành ngân sách lớn cho sở hữu một chiếc điện thoại di động và coi đó là phương tiện
liên lạc chủ yếu vẫn là một hạn chế.
Đối với những khách hàng chưa từng sử dụng dịch vụ di động do khả năng chi
trả, việc tung ra những chương trình khuyến mại về giá có ảnh hưởng tích cực đến
nhận thức và hành động của họ, khuyến mại cho thuê bao hoà mạng mới là cách tốt
nhất để thúc đẩy nhóm người này gia nhập mạng. Đối với các khách hàng của đối thủ
cạnh tranh, các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức khuyến mại như trên nhằm
khẳng định những ưu đãi và uy tín của thương hiệu mình, khuyến khích, thu hút những
khách hàng này quay sang sử dụng dịch vụ của mình, hoặc sử dụng thêm sim của
doanh nghiệp bên cạnh sim vẫn sử dụng, nhằm phục vụ cho yêu cầu công việc, cuộc
sống, hoặc đơn giản là có sự so sánh nhất định để chọn ra nhà cung cấp dịch vụ tốt hơn
đối với nhóm những khách hàng mong muốn tìm kiếm giá trị.
Bên cạnh đó là cuộc đua giảm cước hoặc miễn cước gọi nội mạng của nhiều nhà
cung cấp hết sức hấp dẫn đối với khách hàng. Trên thực tế, có thể thấy Viettel chính là
nhà cung cấp châm ngòi cho chính sách giảm cước gọi. Các nhà cung cấp cũng nhân
11
Hoàng Hùng (16/5/2006), “Khuyến mại di động: Con gà tức nhau tiếng gáy?”, http://vietbao.vn/Vi-tinh-Vienthong/Khuyen-mai-di-dong-Con-ga-tuc-nhau-tieng-gay/20570919/217/, 28/2/2010.
- 28 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
một số dịp trong năm như Tết Nguyên Đán hoặc các ngày lễ kỉ niệm để tung ra các
chương trình khuyến mại hấp dẫn, đáp ứng đúng nhu cầu tăng liên lạc của người dân
trong những thời điểm này. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng số thuê bao di
động phát triển mới trong tháng 1 năm 2010 ước đạt 4,3 triệu thuê bao, tăng 168,6% so
với cùng kỳ năm 2009.12 Viettel đã phát triển mới 42.3 triệu thuê bao di động, trong đó
có 16 triệu thuê bao hoạt động hai chiều, mạng di động mới Beeline thu hút đuợc 2
triệu thuê bao, còn Vietnamobile hiện có khoảng 4 triệu thuê bao.13 Theo đó, vào thời
điểm này, các chương trình giảm cước mạnh tay của các nhà mạng vốn rất hấp dẫn với
khách hàng, đồng thời, đây là thời điểm giáp Tết Nguyên đán, nhu cầu mua sắm, liên
lạc, sử dụng thêm sim, thêm số điện thoại của các đối tượng như sinh viên, công nhân
viên chức tăng cao. Hai yếu tố này cộng hưởng lại thực sự đã kích thích lượng thuê bao
di động tăng trưởng mạnh trong những tháng đầu năm 2010.
1.1.2. Thu hút trở lại thuê bao rời mạng
Thuê bao rời mạng là đối tượng thuê bao đã từng hoạt động phát sinh cước trên hệ
thống mạng của nhà cung cấp, nhưng đã ngừng hoạt động trong trạng thái sim khoá hai
chiều (gọi đi và nhận cuộc gọi) và vẫn trong khoảng thời gian giữ số theo qui định của
nhà cung cấp đó. Đây là lượng thuê bao đã từng sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp
nhưng đã ngừng sử dụng dịch vụ, do đó, việc thuyết phục lượng khách hàng này quay
trở lại sử dụng dịch vụ có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp viễn thông di
động. Khi thuê bao còn nằm trong thời hạn này, doanh nghiệp phải có chiến lược
thuyết phục các thuê bao này khôi phục lại hoạt động, nếu quá thời hạn trên, số thuê
bao sẽ bị huỷ và đưa vào kho số chờ phục hồi lại hoàn toàn. Đối với đối tượng khách
hàng đã rời mạng, một khi họ quyết định khôi phục lại hoạt động thì khả năng duy trì
sử dụng dịch vụ, thậm chí trung thành với thương hiệu là rất cao. Điều quan trọng là
12
Mạnh Chung (1/2/2010), “Thuê bao điện thoại: Di động gấp 6 lần cố định”,
http://vneconomy.vn/2010013109348776P0C16/thue-bao-dien-thoai-di-dong-gap-6-lan-co-dinh.htm, 28/2/2010.
13
Duy An (18/1/2010), “Ông lớn đề nghị khống chế giảm cước di động”, http://www.ictnews.vn/Home/vienthong/Ong-lon-de-nghi-khong-che-giam%C2%A0cuoc-di-dong/2010/01/1SVCM524080/View.htm, 1/3/2010.
- 29 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
doanh nghiệp phải nắm được lí do vì sao những đối tượng này quyết định rời mạng,
dựa vào đó, xây dựng được chiến lược thuyết phục họ quay trở lại. Một trong những
công cụ ngắn hạn được sử dụng và phát huy hiệu quả cao đó là các chương trình
khuyến mại.
Nhằm tăng cường độ kích thích và sự hấp dẫn đối với khách hang, một số hình
thức khuyến mại dành cho thuê bao khôi phục lại có thể kể tới như: khuyến mại tặng
tiền vào tài khoản, tặng phút gọi hoặc tin nhắn miễn phí với thuê bao trả trước; miễn
phí cước thuê bao trong một thời gian, miễn phí sử dụng dịch vụ giá trị gia tăng… đối
với thuê bao trả sau. Những chương trình khuyến mại cũng có thể đi kèm với thông tin
quảng cáo rộng rãi, nằm trong sự kiện lớn hoặc hoạt động quảng bá thương hiệu như
chương trình tri ân khách hàng, chương trình kỉ niệm của mỗi nhà cung cấp. Có thể
nói, nếu các chương trình khuyến mại nhận được phản hồi tốt từ khách hàng bằng việc
quay trở lại sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp, thì điều này chứng tỏ thành công của
công cụ khuyến mại dành cho đối tượng này nói riêng và thành công của chiến lược
quảng bá thương hiệu nói chung trong dài hạn.
Tuy nhiên, những chương trình khuyến mại với mục đích thuyết phục thuê bao cũ
khôi phục lại có thực sự tạo nên tác động tăng lượng thuê bao cho doanh nghiệp hay
không còn phụ thuộc vào cách tính tổng số thuê bao thực của mỗi nhà cung cấp. Theo
như tiêu chí mà Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra vào năm 2008, thuê bao thực
đang hoạt động là thuê bao phải có phát sinh cước, tức là thuê bao mở hai chiều và các
thuê bao đã cắt một chiều (còn một chiều nghe). Những thuê bao bị cắt cả hai chiều
đang trong thời gian giữ số theo quy định và số simcard nằm trên kênh phân phối đều
được coi là thuê bao chưa hoạt động14. Thế nhưng tiêu chí này dường như không được
áp dụng ở tất cả các nhà cung cấp. Có thể thấy hiện đang tồn tại hai cách tính ở các
doanh nghiệp: hoặc chỉ tính theo lượng thuê bao có cước, hoặc tính cả thuê bao đang
14
Hiền Mai (10/3/2009), “Tính số thuê bao thực: Nên quy định thế nào cho đúng”,
http://www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=158179&CatId=35, 10/3/2010.
- 30 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
khoá hai chiều trên mạng và thuê bao có bật máy trong tháng (mặc dù không phát sinh
cước). Nếu như doanh nghiệp áp dụng cách tính thứ hai thì các thuê bao khoá hai chiều
cũng nằm trong lượng thuê bao đang hoạt động và do đó, nếu những chương trình
khuyến mại có thuyết phục được lượng thuê bao này khôi phục lại thì cũng không tạo
nên vai trò tăng tổng lượng thuê bao.
Tiêu chí mà Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra là để hạn chế việc các nhà cung
cấp công bố lượng thuê bao “vống” lên nhằm đua tranh nhau, trong khi phân nửa số đó
là thuê bao ảo không phát sinh cước. Việc khuyến khích các thuê bao khoá hai chiều
hoạt động trở lại thực sự là chiến lược đặt ra cho các nhà cung cấp trong mỗi chương
trình khuyến mại. Nếu để con số ảo này trên hệ thống mạng, nhà cung cấp vẫn phải bỏ
ra chi phí nhằm duy trì hoạt động trong thời gian giữ số, trong khi nguồn thu về không
có. Đồng nghĩa với điều này, các chương trình khuyến mại sẽ giúp doanh nghiệp
hướng tới chăm sóc khách hàng trung thành của mạng mình - những thuê bao đã và
đang sử dụng dịch vụ, thay vì chỉ chú trọng khuyến mại nhằm lôi kéo khách hàng mới.
Như vậy, trong vai trò làm tăng lượng thuê bao, các hình thức khuyến mại thực sự
phát huy hiệu quả cao. Con số hơn 135 triệu thuê bao ghi nhận vào những tháng đầu
năm 2010 cho thấy, số thuê bao di động hiện đã vượt xa dân số của Việt Nam, và hứa
hẹn còn tăng nhanh hơn nữa khi các doanh nghiệp liên tục đề nghị Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp thêm đầu số mới, cũng như sự ra mắt liên tiếp mạng 3G của các nhà
cung cấp đầu năm nay. Tuy nhiên trên thực tế có bao nhiêu phần trăm trong số này là
thuê bao thực còn là một vấn đề với các doanh nghiệp viễn thông di động. Lượng
khách hàng mới luôn là nền tảng cho các chương trình xúc tiến tiếp theo đối với các
doanh nghiệp, không riêng gì trong lĩnh vực viễn thông, nhằm đưa họ trở thành lực
lượng khách hàng trung thành, thường xuyên.
1.2.
Tăng doanh thu
Lượng thuê bao tăng lên chắc chắn dẫn tới hệ quả tăng doanh thu cho các doanh
nghiệp viễn thông. Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông công bố, doanh thu
- 31 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
bưu chính viễn thông , trong đó chủ yếu là từ viễn thông đã tăng 61% so với năm 2008,
đạt 143.314 tỷ đồng.15 Bất chấp suy thoái kinh tế trong năm 2009, doanh thu từ viễn
thông vẫn tăng trưởng cao, trong đó thuê bao di động là lĩnh vực kinh doanh có doanh
thu phát sinh lớn nhất và đem lại lợi nhuận chính cho các doanh nghiệp viễn thông.
Tính tới hết tháng 1 năm 2010, tổng doanh thu về bưu chính viễn thông đạt 9,9 nghìn
tỷ đồng, tăng 68,9% so với cùng kỳ năm trước.16 Những con số ấn tượng này cho thấy
vai trò không nhỏ của các hình thức khuyến mại dịch vụ di động, bởi trong vài năm trở
lại đây, sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành viễn thông di động có được là nhờ cuộc
đua tranh khuyến mại chưa từng có giữa các nhà cung cấp, đem lại lợi ích to lớn rõ
ràng cho khách hàng. Tuy nhiên, có một thực tế là sự cạnh tranh dựa trên hoạt động
khuyến mại hết sức khốc liệt như hiện nay không những gây nên sự mất ổn định trên
thị trường viễn thông mà còn gây thiệt hại cho chính bản thân các doanh nghiệp. Khi
lạm dụng các hình thức khuyến mại tràn lan, đặc biệt là khuyến mại về giá cước, doanh
nghiệp rất dễ rơi vào tình trạng doanh thu tăng nhưng chi phí cho khuyến mại (chi phí
truyền thông, triển khai, nhân lực, trị giá khuyến mại…) lại cao khiến cho lợi nhuận
viễn thông giảm. Thực sự vậy, khuyến mại mang ý nghĩa là hi sinh một phần lợi nhuận
để tăng doanh số bán hàng, khi doanh nghiệp chấp nhận chạy đua khuyến mại thì việc
giảm lợi nhuận là điều không thể tránh khỏi.
Yếu tố thể hiện cho tác động tiêu cực này chính là chỉ số ARPU- doanh thu bình
quân trên thuê bao di động. Theo đó, nếu doanh thu bình quân mỗi thuê bao mang về
cho doanh nghiệp càng cao thì càng chứng tỏ doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao. Theo
báo cáo của hãng nghiên cứu thị trường BMI (Anh) công bố cuối quý IV năm 2009, chỉ
số ARPU của Việt Nam liên tục giảm mạnh. Năm 2008, ARPU đạt 6 USD, giảm
khoảng 8% so với năm 2007 là 6,5 USD. Trong năm 2009, BMI dự đoán ARPU sẽ
15
Duy An (18/1/2010), “Ông lớn đề nghị khống chế giảm cước di động”, http://www.ictnews.vn/Home/vienthong/Ong-lon-de-nghi-khong-che-giam%C2%A0cuoc-di-dong/2010/01/1SVCM524080/View.htm, 1/3/2010
16
Mạnh Chung (1/2/2010), “Thuê bao điện thoại: Di động gấp 6 lần cố định”,
http://vneconomy.vn/2010013109348776P0C16/thue-bao-dien-thoai-di-dong-gap-6-lan-co-dinh.htm, 28/2/2010
- 32 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
giảm khoàng 21% do cạnh tranh. BMI dự báo sau năm 2009, sự sụt giảm ARPU sẽ
chững lại, khoảng 13,7% trong năm 2010 và 7,4% trong năm 2011, đến năm 2013,
ARPU chỉ đạt khoảng 3,6 USD.17 Các doanh nghiệp viễn thông cũng đang dự báo thị
trường viễn thông năm 2010, 2011 rất dễ xảy ra chiến tranh giá cước, và nếu thực sự
cuộc chiến này xảy ra, doanh nghiệp Việt Nam sẽ không có lãi, do đó không còn khả
năng đầu tư phát triển hạ tầng tới vùng sâu vùng xa, hay đầu tư lớn ra nước ngoài.
Như vậy, dù khuyến mại đem lại lợi ích tăng thuê bao, tăng doanh thu cho các
doanh nghiệp viễn thông, nhưng nếu hoạt động khuyến mại không được các doanh
nghiệp này tính toán hợp lý thì doanh nghiệp sẽ phải rất cố gắng nếu muốn đạt tăng
trưởng khả quan. Khi khuyến mại tràn lan, hậu quả trực tiếp là gây nên lượng thuê bao
ảo, sim rác chạy theo khuyến mại, doanh thu tăng không tương xứng với lượng thuê
bao tăng ảnh hưởng tới chỉ số ARPU hay lợi nhuận của doanh nghiệp, vấn đề này sẽ
được trình bày rõ hơn ở chương sau của khoá luận.
2. Củng cố sức mạnh thƣơng hiệu
Khuyến mại không chỉ đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp viễn thông di động mà còn là công cụ quảng bá, xây dựng thương hiệu trong
bối cảnh cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Những vai trò đó có thể kể tới sau đây.
2.1.
Nâng cao khả năng cạnh tranh
Trong những năm gần đây, với sự có mặt của 7 nhà cung cấp, viễn thông di động
là một trong những ngành có tính cạnh tranh cao nhất trong nền kinh tế. Cho tới đầu
năm 2010, số thuê bao di động đã đạt tới con số 117,4 triệu, mật độ xấp xỉ 150
máy/100 dân,18 với những con số này, cạnh tranh gay gắt diễn ra giữa các doanh nghiệp
là không thể tránh khỏi. Trên thực tế, có rất nhiều phương thức để một doanh nghiệp có
thể nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình, nhưng đối với một nền kinh tế đang phát
17
Duy An (18/1/2010), “Ông lớn đề nghị khống chế giảm cước di động”, http://www.ictnews.vn/Home/vienthong/Ong-lon-de-nghi-khong-che-giam%C2%A0cuoc-di-dong/2010/01/1SVCM524080/View.htm, 1/3/2010.
18
InfoTV 9(4/3/2010),“Thuê bao di động Việt Nam đã vượt xa số dân”, http://dailyinfo.vn/8-54-125752-Thuebao-di-dong-Viet-Nam-da-vuot-xa-so-dan.html, 10/3/2010.
- 33 -
Nguyễn Hà Vân- Anh 3 Luật KDQT K45
triển và mức sống xã hội chưa thật sự cao như ở Việt Nam, các hình thức khuyến mại
có lẽ là một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu nhất.
Có thể thấy, với lợi thế thị phần và bề dày kinh nghiệm hoạt động, các doanh
nghiệp lớn trong ngành như VNPT - với hai thương hiệu lớn Vinaphone và Mobifone,
Tổng Công ty Viễn thông quân đội Viettel sử dụng các chương trình khuyến mại như
một cách để củng cố vị trí của mình. Đặc biệt trong năm 2009, thị phần của Mobifone
và Viettel có xu hướng tăng trong khi Vinaphone bị mất thị phần vào các nhà mạng
khác. Thế mạnh của họ là uy tín và nền tảng thương hiệu, do đó, các chương trình
khuyến mại bên cạnh mục đích thu hút khách hàng còn nhằm tri ân và duy trì lượng
khách hàng hiện tại. Khuyến mại trong hoàn cảnh này giúp doanh nghiệp có được sự
ổn định và vị trí vững chắc trên thị trường, tránh được những tác động từ những biến
động lớn như có sự gia nhập của nhiều nhà cung cấp mới, hay các đợt khuyến mại
“khủng” từ phía những nhà cung cấp nhỏ. Ví dụ điển hình là Vinaphone, Mobifone
cùng với Viettel hiện nay đã tạo nên thế chân kiềng về dịch vụ viễn thông rất khó lung
lay, đây là cản trở lớn đối với những doanh nghiệp nhỏ muốn tạo chỗ đứng nhất định
trên thị trường khi mới gia nhập.
Bảng 2: Số liệu thị phần viễn thông di động Việt Nam năm 2008, 2009
Năm
Mobifone
Vinaphone
Viettel
Sfone, EVN,Vietnamobile
2008
30%
18%
49%
3%
2009
33%
16%
50%
1%
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu độc lập của công ty nghiên cứu thị trường Nielsen)
Tuy nhiên, ở một mặt khác, khuyến mại cũng lại giúp các doanh nghiệp mới xây
dựng lợi thế cạnh tranh cho mình, ví dụ điển hình là Beeline và Vietnamobile. Năm
2009, Vietnamobile (thương hiệu mới của HT Mobile sau khi chuyển đổi công nghệ) ra
mắt với giá cước cuộc gọi rẻ hơn 25%, giá cước tin nhắn rẻ hơn 17%. Đặc biệt sự xuất
hiện của mạng di động thứ 7 Beeline với gói cước Big Zero và khẩu hiệu “nói quên
ngày tháng” miễn cước cuộc gọi từ phút thứ 2 tới phút thứ 20 đã khiến cho cạnh tranh
- 34 -