Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 239 trang )
yếu tố khu biệt. Trong đó, chủ yếu là các tên gọi được định danh bằng một yếu tố
khu biệt. Các tên gọi được tổng kết trong bảng dưới đây :
Bảng 2.15 : Tên gọi các loại trà trong tiếng Việt
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Yếu tố khu biệt
Nguyên liệu
Nguồn gốc
Hình dáng
Mùi vị
Phương thức
Trạng thái
Màu sắc
Công dụng chè
Thời điểm hái
Tổng
Số lượng
34
13
12
7
5
3
2
2
1
79
Ví dụ
chè vối, chè sen
Chè Tàu, chè Tân Cương
Chè móc câu
Chè đắng
Chè sao
Chè tươi
Chè xanh
Chè thanh nhiệt
Chè xuân
Ngoài ra, còn có 12 tên gọi như chè chi, chè mặt, chè thau rả, trà Lipton…
chúng tôi chưa tìm được lí do định danh hoặc do tên gọi sử dụng từ vay mượn.
Trong số các tên gọi cụ thể có hai tên mượn tiếng Hán cả âm, nghĩa và cấu
trúc ngữ pháp, đó là thiên kim trà và mộc hương trà, còn có những tên gọi theo âm
Hán Việt, nhưng đã cải biến về trật tự từ cho phù hợp với tiếng Việt, như: trà thiền,
trà mạn (chè mạn)... còn lại là các tên gọi thuần Việt, như: chè vằng, chè nhài...
Có thể thấy rằng, tên gọi các loại trà trong tiếng Việt rất phong phú, đồng
thời không ít loại được gọi bằng 2 tên gọi khác nhau trở lên. Chẳng hạn : chè
tàu/trà tàu, chè Mạn Hảo/chè mạn, Một trong những nguyên nhân tạo nên sự đa
dạng trong tên gọi này là do sự chấp nhận của người Việt ở cả hai cách gọi chè hay
trà, thậm chí còn có cách gọi với hai âm tiết là nước chè, nước trà. Đồng thời, cũng
phải kể đến sự đa dạng về tên gọi của các yếu tố khu biệt khi gọi tên trà, chẳng hạn
chè nụ còn được gọi là chè hạt, chè hột, trà ướp hương còn được gọi là trà thơm,
chè hương, trà thanh hương…
Từ số liệu thống kê nêu trên, chúng tôi rút ra 5 nhận xét sau :
a/ Các loại chè Trung Quốc có số lượng đa dạng hơn chè Việt Nam. Các loại
chè Việt Nam phần lớn được gọi tên bằng phương pháp trực tiếp, chỉ có một số ít
loại chè đặt tên dựa vào hình dáng mang tính chất ví von. Còn các loại chè Trung
Quốc, phương thức định danh gián tiếp cũng được sử dụng khá phổ biến, thể hiện
83
tính thẩm mĩ cao trong tên gọi các loại trà Trung Quốc. Đồng thời, người Việt Nam
chỉ định danh dựa vào một đặc trưng, còn người Trung Quốc không chỉ định danh
đơn thuần bằng một đặc trưng, mà có thể là tổng hòa của hai hay ba yếu tố, vừa
mang tính chất miêu tả, vừa mang tính chất biểu trưng. Điều này chứng tỏ sự coi
trọng tổng hợp nhiều yếu tố liên quan khi thưởng thức trà của người Trung Quốc.
Có 168/223 tên gọi trà của Trung Quốc xuất hiện yếu tố chỉ địa điểm. Trong
đó, 130/223 tên gọi là sự kết hợp giữa từ chỉ địa điểm và các yếu tố khu biệt khác.
Đây là cách định danh phổ biến nhất trong tên gọi các loại chè của Trung Quốc, vừa
thể hiện nơi sản xuất trà, vừa chỉ ra đặc điểm phẩm chất của trà. Các từ chỉ địa điểm
có thể là tên riêng hoặc tên gọi chung, chỉ nơi sản xuất, nơi sinh trưởng hoặc nơi
tiêu thụ trà, hoặc có thể là tên danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng. Chẳng
hạn : 南岳云烤茶 Nam Nhạc vân vụ trà (trà Vân Vụ, Nam Nhạc), 四川烤茶 Tứ
Xuyên biên trà (trà bán ra vùng biên Tứ Xuyên)... Người Trung Quốc có câu 名山
名水必有名茶 (danh sơn danh thủy tất hữu danh trà). Lựa chọn các địa điểm nổi
tiếng để định danh trà có lợi cho việc tạo thương hiệu trà. Có một điều thú vị là
trong số các địa điểm được lựa chọn để định danh trong tiếng Hán, chúng tôi nhận
thấy không ít địa danh có yếu tố 水 thủy (nước), như 井 tỉnh (giếng),湖 hồ,川
xuyên (sông),溪 khê (suối),海 hải (biển),池 trì (ao),江 giang (sông)... Bởi lẽ
trà có liên quan mật thiết đến thủy thổ, từ nguồn nước trồng trà đến nguồn nước pha
trà. Với người Việt Nam, nước ngon nhất để pha trà là dùng nước sương đêm đọng
trên những tàu lá sen. Đó là loại nước tinh khiết, ngọt, thơm vì chứa đựng cả
nguyên khí âm dương của trời đất. Còn người Trung Quốc cho rằng nước suối trên
núi dùng để nấu pha trà là ngon nhất, sau đó là nước sông, nước tuyết, nước mưa,
nước giếng. Loại nước tốt là loại nước không có hoặc rất ít khoáng chất.
Tên gọi các loại trà được định danh bằng tên địa điểm trong tiếng Việt tuy
không đa dạng bằng tiếng Hán, nhưng cũng đề cập đến những vùng trà nổi tiếng của
Việt Nam, trong đó không thể không nhắc đến các địa danh Thái Nguyên, Hà
Giang, Yên Bái… với các loại trà như chè Tân Cương, chè Shan Tuyết… Ngoài ra,
văn hóa trà Việt Nam còn chịu ảnh hưởng không nhỏ từ văn hóa trà Trung Hoa,
trong đó phải kể đến việc sử dụng chè tàu hay còn gọi là trà tàu. Trong lịch sử, trà
84
Lạc Việt có sự giao lưu với vùng trà Điền Việt (năm 800-900 sau công nguyên). Cư
dân Lạc Việt tham gia vào nhánh cuối con đường Trà mã cổ đạo (con đường trà nối
giữa đất Thục với Lhasa, Trung Nguyên, Phổ Nhĩ, Myanma và địa đầu Tây Bắc An
Nam xưa) [22]. Qua đó, người Việt đã tiếp nhận loại trà tàu, trong đó phải kể đến
loại trà nổi danh ở Trà mã cổ đạo là trà Mạn Hảo, sau này được gọi là chè mạn
(Mạn Hảo là tên địa danh ở Vân Nam). Từ đó, chè tàu gắn bó lâu đời với đời sống
của người Việt, trở thành một đồ uống gần gũi và quen thuộc, có tính chất truyền
thống. Có thời kì “trong trường giao tế nước ta, chè tàu chiếm một địa vị trọng
yếu… Ở nước ta, uống chè tầu sành là một biểu hiện của phong lưu”[2]. Chè tàu đã
đi vào tục ngữ, ca dao Việt : uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc, Làm trai biết
đánh tổ tôm/Uống chè Mạn Hảo, ngâm nôm Thúy Kiều.
b/ Những đặc trưng cơ bản của trà như hình dáng, màu sắc, mùi vị… đều
được người Trung Quốc và người Việt Nam chú ý lựa chọn để định danh.
Hình dáng của trà là đặc trưng được lựa chọn với số lượng khá phong phú,
chỉ đứng sau từ chỉ địa điểm trong tên gọi các loại trà Trung Quốc, và là lựa chọn
thứ 2 sau đặc trưng nguyên liệu trong tên gọi các loại trà Việt Nam. Các từ chỉ hình
dáng trong tên gọi chè vừa mang lại tính trực quan lại vừa có thể mang tính chất ví
von. Trong đó, các từ chỉ hình dáng trực quan có số lượng hạn chế, như : 苞 bao
(nụ), 散 tản (rời), 方 phương (vuông), 烤 viên (tròn), 尖 tiêm (nhọn). Chẳng hạn tên
các loại trà : 方包茶 phương bao trà (trà gói vuông), 烤茶 viên trà, 六堡散茶 lục
bảo tản trà (trà rời lục bảo)… Các từ chỉ hình dáng mang tính chất ví von có số
lượng nhiều hơn hẳn, như trong tên gọi các loại trà : 仙人掌 tiên nhân chưởng (tay
tiên), 月芽 nguyệt nha (búp trăng), 烤烤 long tu (râu rồng), 山米 sơn mễ (gạo núi),
松烤 tùng châm (lá thông)... Chẳng hạn loại trà 六安瓜片 Lục An qua phiến được
sản xuất tại huyện Lục An tỉnh An Huy, hình dáng trông như 瓜片 qua phiến (hạt
dưa). Hay 玉泉仙人掌 ngọc tuyền tiên nhân chưởng sản xuất tại chùa Ngọc Tuyền
huyện Đương Dương, Hồ Bắc, hình dáng như bàn tay ông tiên ( 仙人掌)... Các từ
85
chỉ hình dáng với ý nghĩa ví von này khiến tên gọi của trà vừa có tác dụng gợi tả,
vừa thể hiện tính thẩm mĩ rất cao.
Từ chỉ màu sắc của trà được lựa chọn để đặt tên trà Trung Quốc phong phú
hơn của Việt Nam. Các từ chỉ màu sắc xuất hiện trong tên gọi trà Trung Quốc cụ
thể là 碧烤 bích lục (xanh biếc), 翠烤 thúy lục (xanh cánh trả), 烤 lục (xanh lục), 白
bạch (trắng), 黑 hắc (đen), 烤 thanh (xanh đậm), 紫 tử (tía, tím), 烤 hồng (đỏ), 烤
hoàng (vàng), trong đó các từ chỉ màu xanh vẫn đóng vai trò chủ đạo. Ví dụ 莫干烤
芽 Mạc Can hoàng nha là loại trà trên núi Mạc Can có màu vàng,仙居碧烤 Tiên
Cư bích lục ,井烤翠烤 Tỉnh Cương thúy lục chỉ loại trà lục (hay còn gọi là trà
xanh). Cách định danh này đã làm nổi bật màu sắc của trà kể cả khi chưa pha và đã
pha. Còn trong tiếng Việt, chỉ có 2 loại trà được đặt tên dựa vào màu sắc là chè
xanh, chè đen.
香 hương (thơm) trong tiếng Hán và hương (thơm) trong tiếng Việt cũng là
hai yếu tố xuất hiện trong nhiều tên gọi trà của Trung Quốc và Việt Nam, để chỉ đặc
trưng về hương thơm của trà. Ví dụ 昆明十里香 Côn Minh thập lí hương,天山烤
香 Thiên Sơn chân hương... của Trung Quốc và chè ngũ hương, chè hương… của
Việt Nam. Cách định danh này đã làm nổi bật đặc trưng về mùi thơm của trà, khiến
người thưởng thức vừa nghe tên đã như ngửi thấy hương trà.
Khi đặt tên dựa vào vị trà, người Trung Quốc sử dụng hai từ là 苦 khổ (đắng)
và 甘 cam (ngọt). Chẳng hạn 蒙烤甘露 Mông Đỉnh cam lộ được trồng tại núi Mông
Đỉnh huyện Minh Sơn tỉnh Tứ Xuyên, có vị ngọt, còn 江烤苦茶 Giang Hoa khổ trà
lại được trồng ở Giang Hoa, có vị đắng. Người Việt Nam chỉ có một từ chỉ vị đắng
được dùng để đặt tên trà là chè đắng.
c/ Có những đặc trưng không xuất hiện hoặc xuất hiện ít trong tên gọi chè
của Trung Quốc, nhưng lại được người Việt Nam sử dụng với số lượng khá nhiều
để định danh, trong đó điển hình là đặc trưng về nguyên liệu. Trong tiếng Hán, trà
chuyên dùng để chỉ loại nước được chế từ lá của cây trà. Với tiếng Việt thì tình hình
có khác, bởi từ xưa kia, người Việt đã hiểu trà là thứ sản phẩm đã qua sơ chế, được
86
pha bằng nước để giải khát và tốt cho sức khỏe. Do đó, những loại đồ uống không
chế biến từ nguyên liệu là chè nhưng vẫn được gọi là trà do sự tương đồng về cách
pha hãm và tác dụng đối với cơ thể, chẳng hạn chè Hồng Mai, chè vối, chè vằng...
Thậm chí các bộ phận khác nhau của các loại cây này cũng được dùng để chế biến
các loại trà rất đặc biệt, như : chè búp, chè cành… Ngoài tên gọi các loại nguyên
liệu chính trực tiếp chế biến chè ra, còn có các loại nguyên liệu dùng để ướp tạo
hương thơm cho chè, chủ yếu là tên các loại hoa. Tên gọi các loại nguyên liệu này
có thể xuất hiện trong tên gọi các loại trà của các Việt Nam và Trung Quốc như chè
sen, chè nhài, 茉莉花茶 mạt lị hoa trà (trà hoa nhài), 烤烤花茶 mai khôi hoa trà
(trà hoa hồng)...
Ngược lại, có những đặc trưng xuất hiện với số lượng rất hạn chế trong tên
gọi các loại chè của Việt Nam, nhưng lại được người Trung Quốc sử dụng phổ biến
để đặt tên trà. Trong đó, nổi bật là đặc trưng thời điểm hái chè, đặc trưng phương
thức chế biến, hiện tượng tự nhiên...
Ở Trung Quốc, sự sinh trưởng cũng như thời điểm hái chè mang tính mùa
vụ, thời gian hái chè là mùa xuân, mùa hạ, mùa thu. Lá chè, hình dáng, phẩm chất
khác nhau vào các mùa. Trong đó, 春茶 xuân trà hay còn gọi là 明前茶 minh tiền
trà,烤茶 đầu trà là loại chè được hái vào thượng tuần tháng 3 đến tết Thanh Minh
(khoảng trước và sau ngày 5/4 dương lịch hàng năm), có màu xanh biếc, vị thuần,
hơi đắng, được coi là loại chè có chất lượng tốt nhất. Chè hái vào hai tuần sau tết
Thanh Minh, tức ngày Cốc Vũ được gọi là 雨前茶 vũ tiền trà,雨后茶 vũ hậu trà.
Vì vậy, những người sành uống trà thường chọn mùa xuân uống trà xanh, mùa thu
uống trà hoa cúc, cuối thu sang đông uống trà Ô Long, Phổ Nhĩ, Thiết Quan Âm.
Gần như một năm bốn mùa đều có các loại trà khác nhau đề thưởng thức. Người
sành uống có thể nhận ra trà mới và trà cũ, và đoán định được mùa hái chè.
Văn hóa trà của Trung Quốc đặc biệt nổi tiếng trên thế giới với loại hình
công phu trà cầu kì, tinh tế trong từng chi tiết, nhất là khâu thưởng thức. Chính vì
vậy, trong số 17 tên gọi trà có xuất hiện từ chỉ phương thức chế biến trong tiếng
Hán thì có tới 12 tên gọi sử dụng từ 功夫 công phu. Điều này có liên quan mật thiết
đến truyền thống võ thuật của Trung Quốc. Người luyện võ là người có sức khỏe,
87
vừa có sự dẻo dai, khéo léo, tinh tế từ trong ra ngoài. Những đặc điểm này cũng thể
hiện ngay trong việc uống trà, bởi đó là một cách để rèn luyện sức khỏe, nâng cao
tình thần, lại vừa được coi là thú vui tao nhã. Việc định danh trà bằng 功夫 công
phu đã thể hiện sự tinh tế, cầu kì trong quá trình thưởng thức trà của người Trung
Quốc, từ việc trồng trà, hái trà, chọn trà, xử lí trà, rồi đến chất lượng nước, nhiệt độ
của nước, lượng trà và dụng cụ uống trà, cách pha, cách rót, cho tới khi nhẩn nha
thường thức hương vị bằng cả giác quan và tâm hồn.
d/ Từ tên gọi các loại chè có thể thấy được mức độ cầu kì của trà đạo Trung
Hoa so với Việt Nam. Người Việt gọi tên chè với các đặc trưng đơn giản, dễ hiểu,
dễ nhận biết đối với đại đa số người dùng, phần nào thể hiện sự phổ biến đến các
tầng lớp bình dân của văn hóa trà Việt Nam. Còn với tên gọi các loại chè Trung
Quốc, có thể nhận ra sự công phu và khác biệt ngay từ nguyên liệu, hình dáng, thời
điểm hái, nơi trồng trà... Tất cả những đặc trưng xuất hiện trong tên gọi vừa thể hiện
chất lượng chè của người Trung Quốc vừa gợi ra không gian trà đạo cũng như cách
thức, tâm thái của người uống trà. Để thưởng thức được trà đạo đích thực của Trung
Quốc cần có sự am hiểu chuyên sâu, đạt trình độ ngộ đạo, thanh tâm. Đó là điều
làm nên nét đặc sắc trong văn hóa trà Trung Quốc nổi danh trên toàn thế giới.
e/ Trên thị trường Trung Quốc và Việt Nam hiện nay xuất hiện nhiều sản
phẩm được gọi là trà, chẳng hạn : trà chanh, trà hà thủ ô, trà trinh nữ hoàng cung,
trà túi lọc, trà xanh không độ, trà Dimah, trà Cozy… Những loại trà này được
quảng cáo là rất tốt với sức khỏe, lại rất tiện trong cách pha chế, thỏa mãn được nhu
cầu của nhịp sống ngày nay. Có thể nói rằng, cùng với những loại trà truyền thống,
những loại trà này hiện đại này thể hiện xu hướng phát triển mới của văn hóa trà
thời kì hội nhập.
2.1.5.2. Tiểu trường tên gọi các loại rượu
Cả từ rượu trong tiếng Việt và từ 酒 tửu trong tiếng Hán đều là những danh
từ chung. Tuy nhiên, từ rượu trong tiếng Việt có nghĩa hẹp hơn từ 酒 tửu trong
tiếng Hán. Trong tiếng Việt, rượu là “chất lỏng, vị cay nồng, thường được chưng
cất từ chất bột hoặc trái cây đã ủ men” [70], rượu và bia là khác nhau. Trong tiếng
Hán thì 酒 tửu bao gồm cả rượu và bia. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ
88
nghiên cứu về tên gọi các loại rượu truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc. Do
đó, chúng tôi không tìm hiểu về các loại rượu, bia có nguồn gốc nước ngoài.
(1) Tên gọi các loại rượu ở Trung Quốc
Trong tiếng Hán, 酒 tửu là từ thuần Hán. Xét về mặt văn tự, 酒 tửu là một
chữ hội ý, bao gồm bộ 烤 thủy chỉ chất lỏng và bộ 酉 dậu chỉ vật chứa rượu (bình
rượu). Như vậy, 酒 tửu trong tiếng Hán có nghĩa là chất lỏng lên men được đựng
trong một vật chứa giống như vại hoặc chum.
Trong số 249 tên gọi các loại rượu của Trung Quốc, có 170 tên gọi sử dụng
yếu tố chỉ loại 酒 tửu, chẳng hạn: 白酒 bạch tửu,烤酒 thiêu tửu,老酒 lão tửu,
烤酒 trần tửu..., 79 tên gọi không sử dụng từ chỉ loại chung 酒 tửu, thường là các
tên gọi với từ chỉ đặc trưng dễ nhận ra liên quan đến rượu như : tên gọi thay thế tên
gọi chung là 醇 thuần (vị êm dịu của rượu), tên gọi các loại men (ví dụ: 大曲 đại
khúc,小曲 tiểu khúc,特曲 đặc khúc,烤曲 trần khúc,烤曲 đầu khúc), từ ngữ
liên quan đến phương thức nấu, ủ như 老烤 lão giáo, 白 bạch, đặc trưng trạng thái
của rượu 液 dịch (chất lỏng), tên gọi có xuất hiện từ 春 xuân, các tên gọi khác như
醉大烤 túy đại thánh,小糊烤仙 tiểu hồ đồ tiên. Tuy vậy, những tên gọi này hoàn
toàn có thể thêm yếu tố chỉ loại mà ý nghĩa không thay đổi. Việc sử dụng hay không
sử dụng từ chỉ loại thường dựa vào sự hài hòa về âm tiết với các tên gọi 3 hoặc 4 âm
tiết là chủ yếu. Vì vậy, luận án mặc định các tên gọi đều có từ chỉ loại. Kết quả khảo
sát cho thấy, tên gọi các loại rượu của Trung Quốc có mô hình cấu trúc chung là :
yếu tố khu biệt + yếu tố chỉ loại. Có những loại rượu được định danh dựa vào một
đặc trưng, có những loại lại được định danh dựa vào hai đặc trưng trở lên.
a/ Các loại rượu định danh bằng 1 đặc trưng, cụ thể như trong bảng sau :
Bảng 2.16 : Tên gọi các loại rượu định danh bằng 1 đặc trưng trong tiếng Hán
Stt
1
2
3
4
Yếu tố khu biệt
Tên địa danh
Tên người, điển cố văn học
Lời nói may mắn
Tên gọi rồng, phượng
Số lượng
tên gọi
48
45
37
26
89
Ví dụ
烤烤酒 Thiệu Hưng tửu
杜康酒 Đỗ Khang tửu
烤星酒 thọ tinh tửu
烤烤酒 ngọc long tửu
18
Nguyên liệu
Từ liên quan đến hoàng tộc,
6
quan phủ
7 Đặc tính
8 Dụng cụ
9 Kĩ thuật chế biến
10 Mùi vị
11 Tên dân tộc
Tổng
米酒 mễ tửu
6
5
太后酒 thái hậu tửu
5
4
3
1
1
194
四特酒 tứ đặc tửu
金樽酒 kim tôn tửu
二烤烤酒 nhị qua đầu tửu
稻花香酒 đạo hoa hương tửu
土家酒 thổ gia tửu
Tên gọi các loại rượu được định danh bằng nhiều yếu tố khu biệt trong tiếng
Hán cụ thể như sau :
Bảng 2.17 : Tên gọi các loại rượu định danh bằng 2 đặc trưng trở lên
trong tiếng Hán
Stt
Số lượng
tên gọi
Yếu tố khu biệt
2
3
Địa điểm + từ liên quan đến men
rượu
Địa điểm + 春 xuân (mùa xuân)
Địa danh + nơi nấu, ủ rượu
4
Địa điểm + màu sắc
5
5
Địa điểm + nguyên liệu
5
6
7
Địa điểm + đẳng cấp rượu
Địa điểm + mục đích sử dụng
Tổng
2
2
55
1
21
14
6
Ví dụ
洋 河 / 大 曲 Dương Hà đại
khúc
烤堂/春 lầu đường xuân
烤州/老烤 Lư Châu lão giáo
坊 子 / 白 酒 phường tử bạch
tửu
明 / 烤 minh lục (rượu đỗ
xanh Minh Quang)
烤州/烤酒 Lai Châu bảo tửu
古井烤酒 cổ tỉnh cống tửu
(2) Tên gọi các loại rượu của Việt Nam
Trong tiếng Việt, hiện nay có từ rượu là từ thuần Việt và tửu là một từ Hán
Việt. Tuy nhiên, khả năng độc lập thành từ của tửu rất yếu, có thể coi nó như một từ
tố. Chúng tôi đã thu thập được 116 tên gọi các loại rượu trong tiếng Việt. Tên gọi
các loại rượu này có mô hình cấu trúc là : yếu tố chỉ loại + yếu tố khu biệt. Yếu tố
chỉ loại duy nhất là rượu, các yếu tố khu biệt được liệt kê trong bảng sau :
Bảng 2.18 : Tên gọi các loại rượu trong tiếng Việt
Stt
1
2
3
5
Yếu tố khu biệt
Địa điểm
Nguyên liệu
Phẩm chất rượu
Sự kiện lịch sử
Số lượng tên gọi
45
49
9
4
90
Ví dụ
rượu Mẫu Sơn
rượu gạo
rượu trắng
rượu đế