1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Tiến sĩ >

TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 239 trang )


sinh hoạt vật chất và tinh thần thường nhật của con người. Do vậy, chúng cũng thể

hiện những đặc điểm văn hóa gắn với từng cộng đồng người khác nhau. Đồng thời,

quá trình tiếp xúc, giao lưu giữa các vùng miền, dân tộc khác nhau, trường từ vựng

ẩm thực đã và đang có sự biến đổi do những tác động của cả yếu tố ngôn ngữ và

ngoài ngôn ngữ. Điều đó khiến cho các từ ngữ thuộc trường nghĩa ẩm thực luôn

mang những giá trị văn hóa sâu sắc, thể hiện ở cả mặt tự nhiên và xã hội.

Các đặc trưng văn hóa thể hiện trong trường nghĩa ẩm thực bộc lộ ở ngay

bản thân các thành tố cấu thành từ ngữ ẩm thực (về số lượng, tần số xuất hiện, đặc

trưng ngữ nghĩa, giá trị phản ánh hiện thực), các ý nghĩa biểu trưng và đặc biệt là

các hàm ý văn hóa, thể hiện tâm tư, tình cảm cũng như cách ứng xử của con người.

Dựa trên các kết quả thống kê ở chương 1 và phân tích cấu trúc từ ngữ ở

chương hai, chương này sẽ đề cập đến các đặc trưng văn hóa có liên quan về con

người và văn hóa ẩm thực của Trung Quốc và Việt Nam. Trong đó, chúng tôi có

khảo sát các ý nghĩa biểu trưng của các từ ngữ ẩm thực. Tuy nhiên, để có thể đi sâu

nghiên cứu, chúng tôi không lựa chọn khảo sát các từ ngữ giao thoa với trường

động vật và thực vật (chủ yếu là các từ thuộc tiểu trường nguyên liệu ẩm thực), mà

tập trung tìm hiểu nghĩa biểu trưng, hàm ý văn hóa của các từ ngữ sử dụng với chức

năng ẩm thực, mà quan trọng nhất là để làm thức ăn, đồ uống. Nguồn ngữ liệu khảo

sát chủ yếu ở các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, yết hậu ngữ... của cả hai ngôn ngữ.

3.1. TỪ NGỮ ẨM THỰC THỂ HIỆN CON NGƯỜI

Đặc điểm con người, sự vật được thể hiện khá sinh động qua việc vận dụng

các từ ngữ thuộc trường nghĩa ẩm thực ở hầu hết các tiểu trường. Đối với tiếng Việt,

trong số các phát ngôn dùng từ ngữ ẩm thực để liên hệ tới các lĩnh vực khác thì có

tới trên 80% (555/641) trường hợp dùng để thể hiện con người. Còn trong tiếng Hán

cũng có tới gần 60% (203/375) trường hợp liên tưởng đến con người. Có thể thấy

rằng, đặc điểm con người – chủ thể của văn hóa - được thể hiện nổi trội hơn so với

đặc điểm về sự vật thông qua các nghĩa biểu trưng cũng như hàm ý văn hóa của từ

ngữ ẩm thực. Vì thế, chúng tôi lựa chọn tìm hiểu đặc điểm con người thể hiện qua

trường nghĩa ẩm thực. Trong đó, các từ ngữ chỉ thức ăn, từ chỉ mùi vị và cách thức

thưởng thức thức ăn có số lượng nghĩa biểu trưng về con người nhiều nhất.



110



3.1.1. Từ ngữ ẩm thực thể hiện vẻ bề ngoài của con người

Các thức ăn đã được dùng để liên tưởng đến nhiều bình diện khác nhau về

con người, như cách nhìn nhận, ứng xử với bản thân và môi trường xung quanh.

Trong đó “sắc” và “hình” của thức ăn được liên hệ với diện mạo bề ngoài, “hương”

và “vị” thể hiện thế giới nội tâm của con người.

Người Việt và người Trung Quốc có lối nói so sánh dựa trên sự tương đồng

giữa ngoại hình của con người (màu da, kiểu tóc, dáng người, hình dáng bộ phận cơ

thể…) với màu sắc, hình dạng của thức ăn. Chúng tôi đã thống kê được 14 đơn vị

ngôn ngữ loại này trong tiếng Việt, trong đó 6 đơn vị dựa trên sự tương đồng về

màu sắc, ví dụ: da bánh mật, tóc muối tiêu…; 8 đơn vị dựa trên sự tương đồng về

hình dáng, ví dụ: trán bánh chưng, eo bánh mì… Còn trong tiếng Hán, các từ ngữ

ẩm thực dùng để miêu tả ngoại hình của con người chủ yếu là các từ ngữ giao thoa

với trường nghĩa thực vật, đặc biệt là các loại hoa, quả, chẳng hạn: 杏仁眼 hạnh

nhân nhãn (mắt hạnh nhân-mắt tròn, đẹp),烤桃小嘴 anh đào tiểu chủy (miệng trái

anh đào)…, còn các tên gọi thức ăn lại ít được sử dụng để miêu tả hình dáng con

người. Điểm thú vị khi tìm hiểu về tính biểu trưng của từ ngữ chỉ thức ăn trong

tiếng Việt là cách gợi tả về hình ảnh người phụ nữ thông qua, chẳng hạn :

Bánh này bánh lọc bánh trong / Ngoài tuy xám ủng trong lòng có nhân

Ai ơi, xin chớ tần ngần / Lòng son em vẫn giữ phần dẻo trong (Ca dao)

Hình ảnh cái bánh trong bài ca dao trên đã gợi tả sự tương phản về bề ngoài

không được như ý với vẻ đẹp tâm hồn của người con gái.

Ngoài ra, hình ảnh thức ăn còn dùng để ví với thân phận người phụ nữ Việt

Nam – thân phận bị phụ thuộc vào đàn ông trong xã hội “nam quyền” tồn tại suốt

bao nhiêu năm lịch sử. Đó là những số phận vô cùng bị động, bị động ngay cả trong

chuyện tình cảm :

Chàng ơi phụ thiếp làm chi /Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng

Câu ca dao khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh bánh trôi nước trong thơ

Hồ Xuân Hương. Bánh trôi nước và thân phận chìm nổi của người phụ nữ dưới góc

nhìn tinh tế của Bà Chúa thơ Nôm có nhiều điểm tương đồng. Chính những đặc

trưng “trắng”, “tròn”, “nổi”, “chìm”, “rắn”, “nát” đã trở thành sợi dây kết nối cho

phép liên tưởng trở nên độc đáo và “rất Xuân Hương”:



111



Thân em vừa trắng lại vừa tròn / Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn / Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Khác với hình ảnh bánh và cơm nguội ở trên, hình ảnh bánh trôi nước lại gợi

tả vẻ đẹp hoàn hảo cả về hình thức và tâm hồn, nhưng lại có số phận lênh đênh

chìm nổi của người phụ nữ trong xã hội xưa.

3.1.2. Từ ngữ ẩm thực thể hiện tính cách, phẩm chất con người

Các từ ngữ ẩm thực được sử dụng để liên tưởng đến mặt nội tại của con

người dựa trên thuộc tính, giá trị của thức ăn hoặc đặc điểm ngoại hình của nguyên

liệu thức ăn.

(1) Liên tưởng dựa trên sự tương đồng về thuộc tính, giá trị thức ăn với tính

cách, thái độ, khả năng của con người. Chúng tôi đã thống kê được 24 từ ngữ chỉ

thức ăn trong tiếng Việt và 18 từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán được sử dụng để

ví với mặt nội tại của con người như tính cách, thái độ, khả năng…, thông qua đặc

điểm của chúng, ví dụ: dưa, mắm, cà, bầu, cá, rau, 豆腐 đậu phụ, 苦瓜 khổ qua

(mướp đắng), 辣椒 lạt tiêu (ớt)... Các thức ăn trong tiếng Việt có xu hướng sử dụng

biểu trưng cho những mặt tiêu cực nhiều hơn tiếng Hán. Đó là những thức ăn có vị

không ngon như tanh, chua, đắng, nhạt…, ví dụ: Chả thèm ăn gỏi cá mè/Chả thèm

chơi với những bè bất nhân (ca dao)... ; Nguyên liệu già, để lâu ngày, hoặc được

nấu lại, chẳng hạn: dưa khú bầu già, chê rau muống héo lại ôm dưa già… ; những

thứ rẻ tiền, dễ kiếm như: chê bí phải bầu, chê tôm ăn cá lù dù...

Thức ăn có tính vật chất đặc thù, vì thế khi sử dụng với nghĩa biểu trưng,

người Việt Nam đã nhấn mạnh mặt giá trị của nó, tạo nên sự liên hệ giữa thức ăn và

giá trị phẩm chất con người. Khi sử dụng hình ảnh thức ăn để liên tưởng đến thuộc

tính con người, người Việt và người Trung Quốc ít nhiều đã gắn cho chúng những

đặc điểm mang màu sắc chủ quan dân tộc, chủ yếu là dựa trên đặc trưng mùi vị của

chúng. Chẳng hạn, gỏi cá mè tuy có giá trị về mặt dinh dưỡng, nhưng lại có mùi

tanh khó chịu. Đối với người Việt, vị tanh gợi ra liên tưởng về những việc làm thiếu

nhân tính, thiếu đạo đức đến “man rợ” như loài cầm thú ăn sống nuốt tươi. Trong

tiếng Hán, 豆腐 đậu phụ có đặc điểm là trắng, mềm, dễ vỡ, vì vậy được liên tưởng

với người mềm yếu, không chịu được công kích, không có năng lực, chẳng hạn: 嫩



112



豆腐——不堪一烤 nôn đậu phụ - bất kham nhất kích (đậu phụ tươi – không chịu

được va đập), 豆 腐 心 đậu phụ tâm (trái tim mềm yếu)… Đặc biệt, người Trung

Quốc có cách nói 吃豆腐 ngật đậu phụ (ăn đậu phụ) để ví với việc trêu ghẹo phụ

nữ. Giải thích cho cách nói này, phải kể đến câu chuyện liên quan đến bà chủ quán

đậu phụ có làn da mềm mại, nhan sắc ưa nhìn do thường xuyên ăn đậu phụ. Để thu

hút khách hàng, có lúc bà chủ quán dùng một số chiêu trò đưa đẩy, dụ dỗ khách

hàng. Nhiều khách là đàn ông đến “động chân động tay” với bà chủ nhưng đều

mượn cớ là để “ăn đậu phụ” vì sợ điều tiếng thiên hạ. Dần dần, 吃豆腐 ngật đậu

phụ (ăn đậu phụ) được người Trung Quốc sử dụng với nghĩa bóng là “trên ghẹo phụ

nữ”.

(2) Liên tưởng dựa trên sự tương đồng giữa đặc điểm bên ngoài của thức ăn

với thuộc tính con người. Trong tiếng Hán, có 18 cách nói với mô hình “từ chỉ

nguyên liệu + động từ chỉ phương thức chế biến + từ chỉ nguyên liệu” được dùng

để biểu trưng cho đặc điểm con người với chuẩn so sánh là hình thức bên ngoài của

nguyên liệu. Chẳng hạn 大烤炒烤爪烤 đại hà sao kê trảo (tôm sú xào chân gà), do

đặc thù các nguyên liệu sau khi chế biến đều bị cuộn cong lại, nên tạo sự liên tưởng

đến dáng vẻ khúm núm luồn cúi của con người ; 豆芽拌粉烤 đậu nha bạn phấn

điều (giá đỗ trộn mì sợi), hai loại nguyên liệu đều có hình sợi, trộn vào nhau có sự

liên kết, móc nối lẫn nhau, do đó được sử dụng để ví với sự cấu kết...

Đặc biệt, trong số 18 đơn vị ngôn ngữ nói trên, có tới 13 đơn vị căn cứ vào

hiện tượng hài âm đặc thù để biểu thị các ý nghĩa ví von. Có 6 đơn vị dựa trên hiện

tượng hài âm gián tiếp, tức là dựa trên sự hài âm của từ chỉ màu sắc không xuất hiện

trực tiếp trong phát ngôn. Ví dụ: 小烤拌豆腐 tiểu song bạn đậu phụ (hành trộn đậu

phụ), trong đó 小烤 tiểu song (hành) màu xanh, 豆腐 đậu phụ màu trắng, có cách lí

giải trung gian là 一烤二白 nhất thanh nhị bạch (một xanh hai trắng) với 烤 thanh

(xanh), đồng nghĩa với 烤 thanh (sạch sẽ), ý nghĩa biểu trưng của cách nói này là 一

烤二白 nhất thanh nhị bạch (trong trắng, thuần khiết)... Các màu sắc nguyên liệu



113



được sử dụng trong cách nói này thường thành từng cặp, tiêu biểu là : 烤 thanh

(xanh)-白 bạch (trắng) và 烤 hồng (đỏ)-白 bạch (trắng), trong đó 烤 thanh (xanh) là

đại diện cho màu sắc của 烤 song (hành) , 白 菜 烤 子 bạch thái diệp tử (lá rau

cải),烤菜 cửu thái (rau hẹ) (trong đó chủ yếu là 烤 song (hành)); 烤 hồng (đỏ) là

đại diện cho màu sắc của 胡烤卜 hồ la bốc (cà rốt); 白 bạch (trắng) là đại diện cho

màu sắc của 豆腐 đậu phụ, 白菜 bạch thái (bắp cải) (trong đó chủ yếu là 豆腐 đậu

phụ). Hai cặp màu tương ứng với hai từ chỉ màu có sự hài âm với các từ biểu thị ý

nghĩa trừu tượng, 烤白 thanh bạch (xanh trắng) hài âm với 烤白 thanh bạch (trong

sạch, thuần khiết), 烤白 hồng bạch (đỏ trắng) là từ đồng âm với 烤白 hồng bạch (ví

với sự đúng sai). Ngoài ra, 烤 thanh trong các đơn vị trên còn được sử dụng dựa

trên sự hài âm với 烤 thân.

Có 7 đơn vị với mô hình cấu trúc nêu trên dựa vào hiện tượng hài âm của từ

chỉ nguyên liệu để liên tưởng đến thuộc tính của con người, chẳng hạn 烤菜烤蛋—

冒 充 ( 烤 ) cửu thái độn đản – mạo sung (song) (rau hẹ hầm trứng – giả hành,

đồng âm với giả mạo)..., hoặc sự hài âm của động từ, của từ chỉ tính chất như : 烤糖

拌烤瓜—甘(干)脆 băng đường bạn hoàng qua – cam (can) xuê (đường phèn

trộn dưa chuột có vị 甘脆 cam xuê (ngọt, giòn), đồng âm với 干脆 can xuê (dứt

khoát)...

Có thể thấy rằng, trong các cách sử dụng ngôn ngữ của người Trung Quốc,

hiện tượng hài âm là một phương thức rất độc đáo. Đó là cách chơi chữ lí thú, tạo ra

những hiện tượng ngôn ngữ đầy hàm súc, với những ý tứ sâu xa, kín đáo.

Đồng thời, việc căn cứ vào cách kết hợp nguyên liệu để liên tưởng đến thuộc

tính của con người còn thể hiện sự sáng tạo trong phương thức tư duy trừu tượng.

Người ta đã nhận biết được những đặc trưng nổi trội của các thức ăn trong quá trình

chế biến và liên hệ với những sự vật trừu tượng trong cuộc sống. Đó là một lối tư

duy hình tượng vô cùng sinh động. Những thức ăn được sử dụng làm chuẩn so sánh,



114



biểu trưng cho đặc điểm con người là những thức ăn gần gũi với đời sống hàng

ngày của người Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, nếu dưa, cà là điển hình được

lựa chọn của thức ăn Việt Nam thì ở Trung Quốc lại là đậu phụ, rau... Điều này có

liên quan mật thiết đến đặc điểm tự nhiên và xã hội, tạo ra các sản vật tiêu biểu cho

hai nền văn hóa nông nghiệp Việt Nam và Trung Hoa.

Sự liên tưởng giữa từ ngữ ẩm thực với đặc điểm con người trong tiếng Hán

và tiếng Việt không hoàn toàn giống nhau ở rất nhiều trường hợp. Ví dụ, người

Trung Quốc dùng hình ảnh đậu phụ trắng, mềm để ví với sự yếu đuối, với người

Việt Nam, bã đậu lại được ví với sự dốt nát, ngu muội. Điều này thể hiện sự khác

biệt về đặc trưng văn hóa dân tộc trong tư duy liên tưởng thể hiện trong ngôn ngữ.

3.1.3. Từ ngữ ẩm thực thể hiện tình cảm lứa đôi

Tình cảm lứa đôi là một thứ tình cảm vô cùng đặc biệt, nó là sự hấp dẫn của

hai thái cực, là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa nam và nữ. Tình yêu có thể

kích thích sự hưng phấn, yêu đời, khiến con người vui tươi, hăng say làm việc. Tình

yêu mang lại sức mạnh lớn lao, giống như các thức ăn sẽ tạo năng lượng cho con

người tồn tại và phát triển. Ngược lại, thất tình lại gây nên trạng thái đau buồn, chán

nản, tuyệt vọng, giống như đói ăn, mệt mỏi và suy nhược. Đó chính là cơ sở để

người Việt chuyển di các khái niệm từ thức ăn sang phạm trù tình yêu đôi lứa bắt

đầu từ lúc hẹn hò đến khi nên vợ nên chồng. Trong suốt hành trình của tình yêu,

người Việt đã sử dụng các thức ăn, đồ uống, thậm chí cả vật dụng ẩm thực để ví với

các cung bậc tình cảm đa dạng của đôi lứa yêu nhau.

(1) Trước hết, tên gọi thức ăn dùng để thể hiện sự gắn kết giữa hai thực thể

trong tình yêu. Sự gắn kết đó thể hiện đầu tiên ở nỗi nhớ niềm mong, chẳng hạn:

- Rượu nằm trong nhạo chờ nem/ Anh nằm phòng vắng chờ em một mình.

- Mình nhớ ta như cà nhớ muối / Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng.

Trong các bữa nhậu của cánh mày râu, rượu luôn đi kèm với đồ nhắm, đã có

rượu thì phải có nem, nếu không thì sao gọi là nhắm rượu? Vì thế, nếu rượu mà

không có nem thì thật vô vị, giống như cà không muối thì sao có thể thành thức ăn

được? Khi ghép lại với nhau, rượu và nem, cà và muối đã tạo thành cặp biểu trưng

cho sự cân xứng, thậm chí tạo thành một sự tương tác hài hòa, cũng như trai gái gắn

bó với nhau tạo thành một cặp đôi hoàn hảo, và tôn giá trị cho nhau. Khi nhớ nhau,



115



trai gái đã thể hiện tình cảm qua những hình ảnh thật gần gũi, giản dị và gắn bó keo

sơn. Đó là sự sáng tạo tuyệt vời của các tác giả dân gian Việt Nam.

Từ sự nhớ nhung, tình yêu được thăng hoa lên những cung bậc cảm xúc cao

hơn. Đó là những giây phút hai người hò hẹn, cùng ở bên nhau. Thời xưa, do quan

niệm lễ giáo phong kiến, đối với trai gái yêu nhau, hạnh phúc lớn lao nhất đơn giản

là được cầm tay người yêu, hoặc ngồi dựa lưng người yêu cùng chuyện trò tâm sự :

Cầm tay em như ăn bì nem gỏi cuốn,

Dựa lưng nàng như uống chén rượu ngon.

Người Việt đã rất tinh tế khi lấy ăn uống làm cái cớ để diễn tả tâm trạng

phức tạp của tình yêu. Khi yêu thì người yêu chính là sự sống, là tất cả, gắn với

từng nhịp sống, từng hơi thở của con người. Người Việt dường như đã thể hiện

được mức độ cao của tình yêu khi ví niềm hạnh phúc trong tình yêu với việc ăn bì

nem gỏi cuốn, uống chén rượu ngon – những điều vô cùng thiết thực, gắn bó chặt

chẽ với sự sống của con người. Đó là những thức ăn, đồ uống không có gì xa hoa,

nhưng lại là sản phẩm của đời sống lao động một nắng hai sương. Cũng giống như

tình yêu phải dựa trên sự chân thành, tôn trọng lẫn nhau, vượt qua những trở ngại

của cuộc sống. Thế mới biết tình yêu của người Việt tuy đơn giản, nhưng cũng

không kém phần đằm thắm, tế nhị và đáng trân trọng.

Tình cảm có khi được nảy sinh từ những chi tiết nhỏ trong cuộc sống. Và lẽ

tự nhiên, thức ăn đồ uống – những thứ hay xuất hiện nhất trong sinh hoạt hàng ngày

– đã là duyên cớ của bao nhiêu cuộc tình. Có lẽ vì thế mà người Việt thường có câu

nói vui “con đường đến tình yêu của người đàn ông là phải thông qua dạ dày”:

Thương em vì cá trích ve / Vì rau muống luộc, vì mè trộn măng.

Người con trai thầm yêu trộm nhớ người con gái chỉ vì đã được thưởng thức

thức ăn mà người con gái nấu cho mình. Mặc dù đó chỉ là những thức ăn hết sức

bình dân như: rau muống luộc, mè trộn măng…, nhưng đối với chàng trai đó là

những thức ăn thể hiện được tình cảm và đạo lí của người Việt. Một khi đã yêu

thương nhau thì không cần phải cao lương mĩ vị, chỉ cần thức ăn hết sức dân dã

cũng là dấu ấn cho tình yêu sâu đậm. Càng trong hoàn cảnh thiếu thốn, việc dành

cho nhau cái ăn cái mặc càng chứng tỏ lòng vị tha, đức hy sinh và tình yêu thương

bình dị mà sâu nặng. Hơn nữa, những thức ăn này còn thể hiện sự đảm đang của

người con gái Việt trong việc tề gia nội trợ. Ngày nay, người con trai Việt vẫn cho



116



rằng, gái đảm trước tiên là người biết nấu những thức ăn ngon cho chồng, cho con.

Sự khéo léo về nữ công gia chánh luôn khiến không ít người con trai say đắm, ngất

ngây, và cũng là cách để tạo dựng hạnh phúc gia đình trong xã hội Việt Nam ngày

nay. Điều này cũng khẳng định vai trò của phụ nữ trong gia đình người Việt.

Tình yêu được nâng lên mức độ cao hơn khi ngay cả những thức ăn ngon

cũng không thể sánh nổi với tình cảm của người đang yêu :

Bữa ăn có cá có canh / Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng

Trong bữa ăn của người dân Việt Nam, thức ăn chủ đạo là món rau, cà muối,

cơm với cá là bữa cơm thuộc hạng “sang” mà không phải gia đình nào cũng có.

Được ăn bữa cơm có cá là một niềm hạnh phúc trong đời sống còn vô cùng khó

khăn của Việt Nam thời trước. Tuy nhiên, niềm hạnh phúc này vẫn không lớn lao

bằng việc được nhìn thấy người yêu. Điều này chứng tỏ tình yêu của chàng trai

dành cho cô gái mạnh mẽ biết dường nào.

Như vậy, nỗi nhớ thương là những cung bậc cảm xúc thường trực trong tình

yêu. Đó là thứ tình cảm gắn bó tha thiết giữa hai con người trong quá trình gần gũi,

quan tâm lẫn nhau từng bát cơm manh áo. Nhưng tình yêu không dừng lại ở đó, bởi

yêu còn là “chết ở trong lòng một ít”. Yêu còn là giận hờn, trách cứ. Khi người con

gái thờ ơ trước tình cảm của mình, người con trai chợt buông lời trách móc:

Người ta buôn tây bán đông / Sao cô chỉ thích ngồi không ở nhà?

Người ta ăn cháo đỗ với cà / Sao cô em chỉ thích cháo gà, cháo lươn?

(2) Khi đôi trai gái đã nên vợ nên chồng thì tình cảm được vun đắp qua

những ngày tháng ăn ở cùng nhau, và nó càng cao quý hơn khi đó là những tháng

ngày vất vả nhọc nhằn, với những sinh hoạt ăn uống đạm bạc của đời sống lao

động. Có thể nói rằng, mối quan hệ vợ - chồng là mối quan hệ ràng buộc, cùng chịu

trách nhiệm. Khi đã quyết định gắn bó với nhau thì họ sẵn sàng đồng cam cộng khổ,

chia sẻ ngọt bùi: Đôi ta là nghĩa tao khang / Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.

Những bữa cơm gia đình luôn là lúc vợ chồng sum họp, vừa ăn vừa trò

chuyện để tình cảm thêm gắn bó. Vì lẽ đó, thức ăn, đồ uống quen thuộc trên mâm

cơm như cơm và canh từ hương vị đến vai trò đều thể hiện tình cảm vợ chồng gắn

bó keo sơn. Ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam, bữa cơm gia đình dù có đạm

bạc cũng luôn khiến người ăn có cảm giác ngọt ngào và đầm ấm. Sự hòa thuận giữa

vợ chồng cũng thể hiện ngay trong cảnh sinh hoạt ăn uống với những thức ăn chứa



117



chan tình nghĩa: Râu tôm nấu với ruột bầu / Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen

ngon.

Râu tôm với ruột bầu tuy là những thứ bỏ đi, không đáng để chế biến món

ăn. Nhưng chính tình cảm vợ chồng gắn bó đã khiến món ăn đó không kém gì các

loại cao lương mĩ vị khác. Đó quả là hình ảnh điển hình cơm lành, canh ngọt tượng

trưng cho hạnh phúc gia đình người Việt.

(3) Cùng với thức ăn, đôi đũa thường dùng trong bữa ăn cũng được liên

tưởng đến đạo nghĩa vợ chồng. Đôi đũa là vật dụng hết sức thân quen trên mâm

cơm của người Việt, hầu như không bữa ăn nào có thể thiếu. Vượt qua ý nghĩa là đồ

vật thông thường, gắn liền với đôi đũa còn là những nét văn hóa vô cùng thú vị.

Trong tiếng Việt, khi nhắc đến đũa, người ta luôn nói như đũa có đôi. Một

đôi đũa luôn luôn bao gồm hai chiếc đi kèm với nhau, không thể tách rời. Từ đôi

trong tiếng Việt được dùng để thể hiện những mối quan hệ gắn bó không rời, đặc

biệt là quan hệ khác giới, như: đôi lứa, đẹp đôi, đôi trai gái, đôi nhân tình, vừa đôi

phải lứa… Vì vậy, khi trai gái đã yêu nhau, hứa hẹn lấy nhau thì được gọi là đũa đã

thành đôi. Trong câu chuyện cổ tích “Cây tre trăm đốt”, người Việt xưa đã sử dụng

cây tre để vót đũa dùng trong lễ cưới. Đoạn kết của câu chuyện gợi ra cảnh đám

cưới anh Khoai – nhân vật chính trong câu chuyện, với những đôi đũa vót từ cây tre

trăm đốt được đặt trang trọng trên mỗi mâm cơm, là minh chứng cho hạnh phúc của

chàng trai nghèo khó. Có thể nói, đôi đũa đã được biểu trưng hóa thành đạo vợ

chồng như là sự hài hòa của âm dương với các hàm ý: vợ chồng là hai cá thể gắn

kết không thể tách rời ; vợ chồng phải tương xứng và hài hòa; vợ chồng kết hợp

có sức mạnh to lớn.

Ngay từ khi đôi đũa ra đời, hai chiếc đũa đã luôn phải đi liền với nhau, có

chiếc này thì không thể thiếu chiếc kia. Trong bữa ăn, người ta sẽ không thể lấy

được bất kì thức ăn nào với 1 chiếc đũa. Một khi sử dụng cả đôi thì đũa mang lại

hiệu quả tuyệt vời. Trong gia đình cũng vậy, đã có chồng thì phải có vợ, người này

hỗ trợ người kia, mỗi người đảm nhiệm một vai trò khác nhau trong cuộc sống.

Trước đây, người vợ thường lo tề gia nội trợ, còn chồng thì lo việc xã hội. Chí Phèo

cũng biết ước ao đến ngày “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”. Đó là sự phân

công lao động, tạo nên sự bền chặt, gắn bó giữa vợ và chồng. Ngày nay, tuy vai trò

của vợ và chồng trong cả việc nhà và việc xã hội là như nhau, nhưng vẫn luôn có sự



118



tương trợ, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau giữa hai cá thể. Và vợ chồng như đũa có đôi

vẫn luôn là một triết lí bất di bất dịch trong cuộc sống hiện đại. Còn khi tình cảm vợ

chồng bị rạn nứt thì được ví như bẻ gãy đôi đũa vậy. Cảnh đời éo le như góa vợ,

góa chồng thì được ví như đũa gắp một chiếc. Người Trung Quốc cũng sử dụng

hình ảnh một chiếc đũa để ví với người đàn ông độc thân hoặc sự lẻ loi, cô quạnh,

như : 烤子烤骨烤—三烤光棍 khoái tử giáp cốt đầu – tam điều quang côn (đũa gắp

xương – ba người độc thân).

Để có thể sử dụng đôi đũa một cách tiện lợi và hài hòa nhất, người Việt Nam

luôn có quy tắc về độ dài, độ lớn, độ chắc, độ thẳng, chất liệu, màu sắc… đối với

đôi đũa. Một đôi đũa theo đúng nghĩa phải là hai chiếc dài, chắc, thẳng như nhau,

đồng thời cùng làm bằng một chất liệu và cùng một màu. Hai chiếc đũa nếu lệch

một chút thì còn có thể dùng tạm được, nhưng nếu một chiếc quá dài, một chiếc quá

ngắn, một chiếc thẳng, một chiếc cong thì không thể gắp được thức ăn hay và được

cơm. Bởi thế mà dân gian Việt Nam đã đánh giá vai trò quan trọng của đôi đũa

rằng: Vợ dại không hại bằng đũa vênh. Vợ chồng cũng phải tương xứng với nhau về

cả diện mạo lẫn phẩm chất. Vợ chồng được gọi là “đẹp đôi” trước hết là phải tương

xứng về hình thức, nhất là chiều cao. Do đó, ca dao Việt có câu:

Bây giờ chồng thấp vợ cao / Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

Một đôi đũa đạt tiêu chuẩn trong bữa ăn sẽ làm được không biết bao nhiêu

việc có ích, thay cho cả ba thứ dao, dĩa, thìa, từ việc gắp thức ăn, và cơm, xắt miếng

thịt… Giống như vợ chồng khi đã sống hòa hợp với nhau thì sẽ tạo thành sức mạnh

lớn lao và làm được những điều kì diệu, từ việc sinh con đẻ cái, xây dựng kinh tế

gia đình, đến những đóng góp cho sự phát triển của xã hội, chẳng thế mà cha ông ta

đã có câu Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

Chính bởi đũa, bát là những vật sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày của đời

sống vợ chồng, nên nó lại được dùng để ví với những va chạm trong cuộc sống gia

đình, chẳng hạn như: Đụng bát đụng đũa, Xô bát xô đũa, Va đũa chạm bát...

(4) Trong sinh hoạt ăn uống của người Việt, có những loại thức ăn thường

xuyên sử dụng, có những món do phụ thuộc điều kiện kinh tế nên chỉ xuất hiện

trong các dịp đặc biệt. Theo lệ thường, những món thường xuyên xuất hiện như

cơm bữa thì dễ gây cảm giác chán ngán, còn những món ít thưởng thức thì thường



119



mang lại cảm giác lạ, ngon miệng và được đón nhận hào hứng hơn. Vì thế, người

nội trợ giỏi là người biết đổi món thường xuyên cho gia đình. Nguyên lí này cũng

được áp dụng ngay cả với tình yêu. Hai người yêu nhau một thời gian dài sẽ dễ gây

cảm giác nhàm chán, tình yêu của họ dễ rơi vào trạng thái nhạt nhẽo, dẫn đến nhu

cầu thay đổi bạn tình, để tạo cảm giác mới mẻ trong tình yêu. Người Việt Nam liên

tưởng việc ngoại tình với thay đổi thức ăn: ông ăn chả, bà ăn nem, chán cơm thèm

phở… Trong đó phải kể đến sự đối lập giữa cơm và phở giống như sự đối lập giữa

vợ và người tình. Cơm là thành phần chính trong các bữa ăn hàng ngày của người

Việt. Cơm quen thuộc đến mức trong tiếng Việt có hàng loạt cách nói dùng từ cơm

bữa để ví với những gì diễn ra thường xuyên, liên tục, không có gì mới mẻ, như:

đánh nhau như cơm bữa, ăn đòn như cơm bữa... Ngược lại, phở là một thứ quà có

sức hấp dẫn đặc biệt, nó được coi như một thức ăn chơi mà nhiều người yêu thích.

Một đặc tính vô cùng quan trọng của phở là phải ăn nóng, khó có thể cưỡng lại một

bát phở nóng dậy mùi thơm của thịt bò, hành, rau sống, nước dùng... Đối với cơm

cũng vậy, cơm chín tới là ngon nhất. Một khi đã trở thành cơm nguội và phở nguội

thì chẳng ai muốn động đũa cả. Ngoài ra, nói đến cơm người ta thường nghĩ đến

bữa cơm gia đình, còn nói đến phở người ta thường nghĩ đến quán xá, nhà hàng.

Với các đặc tính đó thì cơm được ví như người vợ quen thuộc trong gia đình, gắn bó

suốt đời với người chồng, còn phở là nhân tình mới lạ, chỉ gắn bó nhất thời trong

hành trình sống của người đàn ông.

Với thuần phong mỹ tục, người Việt Nam truyền thống luôn coi trọng gia

đình, trọng tình trọng nghĩa, ca ngợi sự thủy chung, do vậy việc “có mới nới cũ”,

“chán cơm thèm phở” thường bị phê bình, chê trách.

(5) Việc gìn giữ hạnh phúc gia đình cũng được coi là một nghệ thuật sống.

Trong đó phải kể đến xu hướng mềm mỏng trong cách xử lí mâu thuẫn gia đình của

người Việt : Chồng giận thì vợ bớt lời / Cơm sôi nhỏ lửa, mười đời không khê.

Nấu cơm là việc vừa dễ lại vừa khó, quan trọng nhất là người ta phải biết

điều chỉnh mức lửa sao cho phù hợp để nồi cơm không bị cháy, bị khê. Một khi

cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt là do cách chế biến của người đầu bếp. Vợ chồng

cũng vậy, những mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc đời là do cách hành xử của hai bên.

Một nhân tố gây nên mâu thuẫn đó là sự nóng giận - được ví như “lửa” khi nấu

cơm, nếu lửa càng mạnh thì cơm sẽ càng dễ hỏng. Bởi thế mà người ta có câu cơm



120



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (239 trang)

×