Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.62 KB, 197 trang )
chênh lệch này. Đây là phương pháp truyền thống và lâu đời nhất của KTQT.
Phương pháp này được IFAC (1998) phân loại vào giai đoạn phát triển đầu
tiên của KTQT. Tuy nhiên, do tính hữu dụng của nó, phương pháp chi phí tiêu
chuẩn vẫn được sử dụng phổ biếnhiện nay.
Theo tác giả Williams (2010), phương pháp chi phí tiêu chuẩn là
phương pháp KTQT chi phí thực hiện thơngqua việc xây dựng hệ thống định
mức chi phí, kiểm sốt chi phí bằng việc phân tích, đánh giá chênh lệch giữa
chi phí thực tế và chi phí định mức.
Để triển khai phương pháp chi phí tiêu chuẩn trong đơn vị, KTQT chi
phí tiến hành xây dựng hệ thống định mức, lập dự tốn, thu thập thơng tin
thực hiện, sau đó tổng kết, đánh giá và phân tích tình hình thực hiện định mức
chi phí. Như vậy, KTQT chi phí đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thông tin cho nhà quản lý cả trước, trong và sau quá trình hoạt động sản xuất
dịch vụ.
Định mức chi phí là sự kết tinh các khoản chi phí dự kiến tiêu hao cho
một đơn vị sản phẩm trong điều kiện sản xuất thông thường (nhưng hiệu quả).
Định mức được chia thành định mức lý tưởng và định mức thực tế.
Định mức lý tưởng (định mức lý thuyết): là những định mức chỉ có thể
đạt được trong điều kiện hồn hảo nhất. Chúng khơng cho phép bất kỳ một sự
hư hỏng nào của máy móc thiết bị hay sự gián đoạn của sản xuất. Chúng đòi
hỏi một trình độ năng lực rất cao mà chỉ có thể có ở những cơng nhân lành
nghề, làm việc với sự cố gắng tột độ trong suốt thời gian lao động.
Định mức lý tưởng không được sử dụng trong hoạt động quản trị, vì
đây là loại định mức mà thực tế không bao giờ đạt được.
Định mức thực tế: là những định mức được xây dựng chặt chẽ nhưng
có khả năng đạt được, nếu cố gắng. Chúng cho phép có thời gian ngừng máy
hợp lý, thời gian nghỉ ngơi của nhân viên, người lao động có trình độ lành
67
nghề trung bình, ý thức trách nhiệm đầy đủ. Vì vậy, định mức thực tế nếu
được xây dựng hợp lý sẽ có tác dụng động viên, khuyến khích người lao động.
Định mức thực tế được dùng làm cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả
thực hiện. Thơng qua việc đánh giá thực hiện định mức, nhà quản trị phát hiện
ra những hiện tượng khơng bình thường, những chỗ kém hiệu quả cần được
xem xét kỹ lưỡng và tìm biện pháp khắc phục hoặc những tiềm năng cần tìm
hiểu để có biện pháp phát huy.
Để thực hiện được phương pháp chi phí định mức, nhà quản trị phải
tiến hành lập dự tốn chi phí cho doanh nghiệp dịch vụ. Định mức chi phí và
dự tốn chi phí có mối liên hệ mật thiết với nhau. Định mức được xây dựng
cho một đơn vị sản phẩm còn dự tốn được xây dựng cho toàn bộ sản lượng
sản xuất (kế hoạch). Định mức là cơ sở để lập dự toán, ngược lại dự toán là cơ
sở để đánh giá, kiểm tra sự phù hợp, tính khoa học, tính hiện thực của định
mức, từ đó đưa ra các điều chỉnh để hồn thiện hệ thống định mức.
Phương pháp chi phí tiêu chuẩn thực hiện kiểm sốt chi phí thơng qua
hệ thống định mức có sẵn. Kết quả thực hiện chi phí sẽ được so sánh với hệ
thống định mức và dự tốn chi phí, đây chính là những điểm tham chiếu để so
sánh, đánh giá quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ .
Hệ thống định mức và dự tốn chi phí là cơng cụ để đánh giá hiệu quả
hoạt động của các trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp, đặc biệt là trung
tâm chi phí.
Dựa trên phương pháp chi phí tiêu chuẩn, nhà quản trị xây dựng hệ
thống cảnh báo khi dự tốn chi phí khơng thực hiện được. Thơng qua việc
phân tích chênh lệch giữa chi phí thực tế và định mức, nhà quản trị tìm ra
nguyên nhân, từ đó đưa ra các biện pháp cắt giảm nhữngkhoản chi không hiệu
quả, để xây dựng hệ thống định mức chi phù hợp hơn.Theo đó tác giả cho
rằng, phương pháp chi phí tiêu chuẩn cho phép cácdoanh nghiệp dịch vụ dễ
dàng tập hợp được chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các đơn vị
68
bộ phận trực tiếp thực hiện hoạt động dịch vụ.Quá đó việc phân tích chênh
lệch chi phí tại các trung tâm chi phí, đánh giá mức độ hồn thành mục tiêu
chi phí và xác định những biến động bất thường để có những điều chỉnh kịp
thời. Ngồi ra,chênh lệch chi phí còn là thước đo đánh giá trách nhiệm quản
trị chi phí của nhà quản trị bộ phận.Theo phương pháp này quá trình tập hợp
chi phí dịch vụ được xác định trên cơ sở các định mức chi phí nhằm mục tiêucung
cấp thơng tin chi phí dịch vụ theo tiêu chuẩn trong q trình cung cấp dịch vụ
để ước tính trước giá thành làm tiền đề xác định giá phù hợp trong các tình
huống cụ thể.
Phương pháp này, còn cungcấp thơng tin chênh lệch giữa chi phí định
mức và chi phí thực tế trong quá trình cung cấp dịch vụ để nắm bắt tình hình
biến động chi phí trong kỳ, tình hình thực hiện dự tốn chi phí nhằm tăng
cường khả năng kiểm sốt. Đồng thời, điều chỉnh kịp thời chi phí sản xuất
nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro, tổn thất, phấn đấu tiết kiệm chi phí để đạt
được hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn. Ngồi ra, qua thơng tin chênh lệch
chi phí còn giúp đánh giá, xác định các nhân tố tác động, trách nhiệm cá nhân,
bộ phận liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần hồn
thiện hơn hệ thống định mức chi phí cũng như hệ thống trách nhiệm quản lí.
Phương pháp tập hợp chi phí tiêu chuẩn còn xác định nội dung kinh tế,
xây dựng hệ thống các định mức chi phí cụ thể cho từng đối tượng được quản
trị nhằm thu hẹp khoảng cách giữa chi phí định mức và chi phí thực tế. Tuy
nhiên, phương pháp tâp hợp chi phí tiêu chuẩn cũng đòi hỏi các định mức chi
phí trong doanh nghiệp cần phải được định kỳ xem xét lại cho phù hợp với
từng hoàn cảnh cụ thể và chọn đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với mục tiêu
kiểm sốt, tăng cường việc quản trị chi phí. Trong các doanh nghiệp dịch vụ
đối tượng tập hợp chi phí có thể là từng hoạt động dịch vụ được tổng hợp chi
phí định mức để xác định giá thành dịch vụ theo chi phí tiêu chuẩn khi có nhu
cầu cung cấp thơng tin về chi phí cho các quyết định quản trị. Q trình tổng
69
hợp chi phí thực tế để đối chiếu với chi phí tiêu chuẩn định mức, từ đó xác
định và phân tích sự biến động chi phí theo các mục tiêu quản trị chi phí của
các doanh ngiệp dịch vụ. Nếu xem xét các phương pháp KTQT chi phí gắn
với chu kỳ sống của sản phẩm thì phương pháp chi phí tiêu chuẩn được xem
là phương pháp được sử dụng lâu nhất và phổ biến nhất.
1.3.3.2. Phương pháp xác định chi phí theo các mơ hình KTQT chi phí
hiện đại
Phương pháp xác định chi phí theo hoạt động (ABC-Activity Based
Costing)
Dựa trên nguyên lý cơ bản là sản phẩm tiêu dung các hoạt động, các
hoạt động tiêu dùng nguồn lực, ABC xác định chi phí theo các hoạt động rồi
sau đó phân bổ chi phí cho các sản phẩm dựa trên mối quan hệ nhân quả.
Rober Kaplan và Robin Cooper đề xuất ABC thành các giai đoạn
Giai đoạn 1: Xác định chi phí đến các hoạt động
Nếu như các phương pháp xác định chi phí truyền thống tập hợp chi phí
theo các trung tâm chi phí rồi phân bổ chi phí đến các đối tượng chịu phí thì
ABC tập hợp chi phí và các định chi phí theo hoạt động. Để xác đinh chi phí
đến các hoạt động, việc đầu tiên là phải xác định được danh mục các hoạt động.
Matin sievanen và Katja Tornberg (2002) cho rằng, để tạo ra một hệ
thống xác định chi phí thơng minh thì các hoạt động cần được xác định trong
mối quan hệ với quy trình mà nó trực thuộc chứ không phải là các hoạt động
riêng lẻ. Khi đó mỗi quan hệ giữa các hoạt động trong một quy trình sẽ được
thể hiện rõ nét nhờ đó có thể phân tích được ảnh hưởng của từng hoạt động
đến mục tiêu cải thiện cũng như cắt giảm chi phí trong từng quy trình. Như
vậy, điểm cơt lõi của hệ thống xác định chi phí thơng minh nằm ở việc xác
định các hoạt động.Sau khi lập xong danh mục các hoạt động, bước tiếp theo
là xác định chi phí cho các hoạt động đó. Việc xác định chi phí cho các hoạt
động được thực hiện thông qua quan sát, phỏng vấn, điều tra nhân viện và cán
70
bộ quản lý tại nơi diễn ra hoạt động. Cách tiếp cận này đã giúp ABC phân loại
chi phí gián tiếp tương ứng với các cấp bậc hoạt động. Theo Robin Cooper, có
bốn loại hoạt động tương ứng với bốn cấp bậc phát sinh chi phí đó là:
Hoạt động ở cấp độ đơn vị sản phẩm dịch vụ: Là những hoạt động được
thực hiện gắn với từng đơn vị sản phẩm dịch vụ. Số lượng các sản phẩm này
tỷ lệ thuận với số lượng sản phẩm dịch vụ tiêu thụ.
Hoạt động ở cấp độ hỗ trợ sản phẩm và khách hàng: Hoạt động ở cấp
độ hỗ trợ được thực hiện nhằm đảm bảo cho một loại sản phẩm hoặc dịch vụ
được sản xuất. Chi phí này thay đổi theo số lượng loại sản phẩm dịch vụ chứ
không thay đổi theo số lượng sản phẩm dịch vụ sản xuất, tiêu thụ.Vì vậy, hoạt
động này phụ thuộc vào số lượng khách hàng chứ không phụ thuộc vào số
lượng hay cơ cấu mặt hàng tiêu thụ.
Hoạt động ở cấp độ hỡ trợ, duy trì tổ chức: là những hoạt động được
thực hiện hỗ trợquản lý, phục vụ tại các dây truyền, đơn vị trực thuộc và toàn
doanh nghiệp. Những hoạt động này không thể xác định được đến từng loại
sản phẩm dịch vụ hay từng khách hàng. Chi phí của các hoạt động này có thể
tính trực tiếp cho các sản phẩm dịch vụ hay khách hàng tại các bộ phận này.
Với bốn cấp độ hoạt động, ABC cho phép phân loại chi phí thành 4 cấp
độ tương ứng với các cấp độ hoạt động để từ đó thiết lập được mỗi quan hệ
nhân quả giữa hoạt động và nguồn lực tiêu dung. Tiếp theo, mối quan hệ này
sẽ là cơ sở để xác định chi phí cho các hoạt động.
Tùy thuộc vào đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh mà mỗi
doanh nghiệp dịch vụ có số lượng các hoạt động khác nhau. Số lượng các
hoạt động nhiều hay ít sẽ quyết định mức độ phức tạp và tính khả thi khi thực
hiện ABC. Có hai tiêu chí để xác định một hoạt động đó là hoạt động phải
đóng vài trò quan trọng đối với quá trình kinh doanh và mức độ tiêu dung
CPSXC ước tính tương đối lớn. Số lượng các hoạt đơng khơng phù hợp lớn sẽ
làm cho hệ thống ABC trở lên phức tạp và gây khó khăn trong việc triển khai
71