Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 111 trang )
8
- Nội soi khớp (NSK): thường được sử dụng trong phối hợp điều trị hay
để chẩn đoán ở các trường hợp sớm, khó, cần chẩn đốn phân biệt.
1.1.2.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Chẩn đoán THK gối nguyên phát theo tiêu chuẩn lâm sàng và XQ của
ACR 1991 [26-29], có độ nhậy 94%, độ đặc hiệu 88%:
1. Đau khớp gối trong hầu hết các ngày của tháng trước đó.
2. Có gai xương ở rìa khớp trên Xquang.
3. Dịch khớp là dịch thối hố (gồm ít nhất 2 trong 3 tiêu chuẩn: dịch khớp
trong, độ nhớt giảm hoặc bạch cầu dịch khớp dưới 2000 tế bào/ mm3).
4. Tuổi ≥ 40.
5. Cứng khớp ≤ 30 phút.
6. Lạo xạo khi cử động.
Chẩn đoán xác định khi có yếu tố 1, 2 hoặc 1, 3, 5, 6 hoặc 1, 4, 5, 6.
1.1.2.5. Phân loại thối hóa khớp gối
Gồm 2 loại [29]:
- THK nguyên phát: thường gặp ở người có tuổi, khơng tìm thấy
ngun nhân.
- THK thứ phát: tìm thấy nguyên nhân, thường sau chấn thương, bệnh
chuyển hoá, hoặc viêm khớp. Các nguyên nhân thường gây THK thứ
phát gồm có
Chấn thương gây trật khớp gối
Bệnh lý viêm khớp mạn tính: viêm khớp dạng thấp, gout.
Bệnh lý chuyển hóa: lắng đọng tinh thể calcium pyrophosphate
dehydrate, bệnh khớp apatite.
Bệnh lý nội tiết: đái tháo đường, bệnh to các viễn cực, suy giáp,
cường giáp.
Hoại tử vô khuẩn: thường gặp ở khớp háng
Bệnh máu: hemophilia gây chảy máu khớp gối tái phát nhiều lần
9
1.1.3. Điều trị bệnh thối hóa khớp gối.
Mục tiêu điều trị: kiểm soát đau và sưng khớp, làm giảm tàn phế, cải
thiện chất lượng cuộc sống, ngăn chặn quá trình tiến triển của bệnh cũng như
giáo dục BN về vai trò của bản thân trong điều trị bệnh.
Việc điều trị cần kết hợp giữa các phương pháp dùng thuốc và không
dùng thuốc, kết hợp với điều trị ngoại khoa khi cần.
1.1.3.1. Các biện pháp không dùng thuốc
Các biện pháp không dùng thuốc đóng vai trò quan trọng trong điều trị
bệnh THK gối. Bao gồm: giảm cân, điều chỉnh chế độ ăn, nghỉ ngơi, vật lý trị
liệu phục hồi chức năng, tập luyện, đeo các dụng cụ hỗ trợ khi cần, nhiệt trị liệu
(chườm nóng hoặc lạnh hay siêu âm liệu pháp),kích thích điện thần kinh qua da
(transcutaneous electrical nerve stimulation- TENS), các biện pháp y học cổ
truyền như sử dụng thảo dược, châm cứu, mát xa, thư giãn,… Đặc biệt chú ý
các phương pháp giáo dụcvà hỗ trợ xã hội cho bệnh nhân vì tính chất mạn tính,
ảnh hưởng lâu dài của bệnh sTHK gối.
1.1.3.2. Các biện pháp dùng thuốc
Hiện nay chưa có một biện pháp điều trị bằng thuốc nào có thể làm
ngừng sự tiến triển của tình trạng hủy khớp do thối hóa. [30-32]
Thuốc điều trị triệu chứng tác dụng nhanh
Thuốc giảm đau đơn thuần
Nhóm thuốc giảm đau đóng một vai trò quan trọng trong điều trị TKH
gối. Các thuốc như paracetamol hay acetaminophen (tiền chất của paracetamol)
được lựa chọn đầu tiên để giảm các triệu chứng đau từ nhẹ tới trung bình. Có
thể phối hợp acetaminophen với thuốc giảm đau nhóm opioid như codein hay
tramadon khi bệnh nhân khơng đáp ứng. Những thuốc nhóm này có thể hữu
ích khi dùng ngắn ngày trong các đợt đau cấp. Cần chú ý các tác dụng phụ
trên gan khi dùng kéo dài.
10
Thuốc chống viêm khơng steroid (CVKS)
Trong THK ln có hiện tượng viêm màng hoạt dịch, điều này giải
thích tác dụng của CVKS đối với triệu chứng viêm. Thuốc CVKS có thể chỉ
định trong THK thể đau nhẹ mà không đáp ứng với paracetamol hoặc THK
đau vừa hoặc nặng. Tuy nhiên việc dùng thuốc CVKS kéo dài có thể gây
nhiều tác dụng phụ trên đường tiêu hóa, gan, thận, tim mạch.
Glucocorticoid
Đường tồn thân: chống chỉ định.
Đường tiêm nội khớp: có chỉ định trong đau khớp gối do thối hóa mà
khơng đáp ứng với CVKS hoặc có chống chỉ định với CVKS . Chỉ tiến hành
tiêm khớp khi chắc chắn khơng có nhiễm khuẩn khớp.
Thuốc điều trị triệu chứng tác dụng chậm
Hyaluronic Acid (HA) tiêm nội khớp. Nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu
quả giảm đau, cải thiện chức năng vận động của HA trong điều trị THK gối
[33]. Ở Việt Nam thuốc được sử dụng rộng rãi và một số nghiên cứu cho thấy
hiệu quả tốt [34].
Thuốc chống thối hóa khớp tác dụng chậm (SYSADOA, viết tắt của
Symptomatic Slow Acting Drugs for OA)
Thuốc chống THK tác dụng chậm bao gồm glucosamine, chondroitin,
diacerein và các chất khơng xà phòng hóa tác từ quả bơ và đậu nành
(avocado/soybean unsaponifiables).
Một số thuốc khác
11
Thuốc chống sốt rét tổng hợp, methotrexate, colchicin, duloxetine,
strontium ranelate và một số thuốc sinh học như Tanezumab đang được
nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị bệnh THK gối.
1.1.3.3. Điều trị ngoại khoa thoái hoá khớp
Điều trị dưới nội soi khớp (NSK): có thể rửa khớp, lấy bỏ các thành
phần ngoại lai trong khớp (các mẩu sụn khớp bị bong ra, hoặc các thành phần
bị calci hoá), sửa chữa các sụn tổn thương, cắt màng hoạt dịch khớp tùy tình
trạng cụ thể.
Điều trị phẫu thuật: bao gồm thay khớp gối một phần hay toàn bộ chỉ
định trong những trường hợp THK gối nặng, thất bại với các điều trị nội khoa
bảo tồn và cả NSK, có giới hạn chức năng khớp gối rõ rệt trong vận động
hàng ngày.
1.1.3.4. Các biện pháp điều trị mới
Huyết tương giàu tiểu cầu, gen trị liệu và tế bào gốc: với mục đích là
hướng tới điều trị tổn thương căn bản của sụn, tức là hướng tới điều trị
nguyên nhân của bệnh THK, các phương pháp trên đang được nghiên cứu và
ứng dụng ngày càng rộng rãi trong Y học nói chung và chuyên ngành cơ
xương khớp nói riêng. Ngày càng nhiều nghiên cứu cơng bố những kết quả
khả quan trong ứng dụng điều trị bệnh THK bằng các phương pháp trên, mở
ra triển vọng mới trong điều trị bệnh. [35-37].
1.2. Vai trò của trọng lượng cơ thể trong thối hóa khớp gối
1.2.1. Vai trò của trọng lượng cơ thể trong các bệnh lý cơ xương khớp nói
chung.
Theo định nghĩa của Hội đái tháo đường thế giới, một người Việt Nam
được coi là thừa cân khi có BMI ≥ 23 kg/m 2 và được chẩn đốn béo phì khi
BMI ≥ 25 kg/m2. Béo phì là kết quả cả sự mất cân bằng giữa năng lượng đưa
vào và năng lượng được tiêu thụ của có thể. Cùng với sự nâng cao chất lượng
12
cuộc sống và sự thay đổi trong thói quen ăn uống , sinh hoạt, tỉ lệ béo phì
trong dân số ngày càng tăng lên, cùng với đó tỉ lệ các bệnh có liên quan đến
béo phì cũng ngày một tăng.
Trên những bệnh nhân béo phì có sự thay đổi về trọng lượng cũng như
sự phân bố mô mỡ trong cơ thể.Mô mỡ ở động vật có vú bao gồm ít nhất 2
dạng khác biệt nhau về chức năng đó là mơ mỡ trắng và mơ mỡ nâu.
Mơ mỡ nâu được tìm thấy ở phía trên xương đòn, vùng liên bả cột
sống. Nó có vai trò quan trọng trong tiêu thụ năng lượng bằng cách tỏa nhiệt
[38, 39].
Hình 1.2. Phân bố mỡ trong cơ thể [39]
Mơ mỡ trắng chiếm tỉ lệ trung bình khoảng 93-97 % tổng lượng mỡ
toàn cơ thể. Với một cơ thể lành mạnh mỡ trắng chiếm 20 % trọng lượng cơ
thể nam giới, 25% trọng lượng cơ thể nữ giới. Mô mỡ trắng chủ yếu tập trung
ở mô mỡ dưới da bụng, mô mỡ quanh các tạng ( là mô mỡ bao quanh các cơ
quanh nội tạng: quanh thận, mạc treo, mạc nối, sau phúc mạc, quanh bộ phận
sinh dục).[39]. Cấu trúc mô học của mô mỡ trắng gồm 2 thành phần chính đó
là các tế bào mỡ trưởng thành và chất nền xen kẽ giữa các mạch máu, chất
nền này chứa các nguyên bào xơ, tế bào mỡ chưa trưởng thành, tế bào nội mô
13
và các tế bào miễn dịch như đại thực bào, tế bào dendritic, tương bào... [40,
41]. Mơ mỡ trắng có vai trò trong dự trữ năng lượng. Đồng thời nó có vai trò
như một cơ quan nội tiết, đây là nơi sản sinh ra các adipokine và các chất tiền
viêm như TNF-α, IL- 6, C- reactive protein, adiponectin , leptin, resistin,
visfatin. Khả năng sản xuất ra các chất trung gian gây viêm của mô mỡ trắng
được lý giải là do nó có cùng nguồn gốc trung mô với tủy xương, các tế bào
tiền thân của tế bào mỡ trưởng thành có cấu trúc và biểu hiện kiểu gen tương
tự như đại thực bào. Vì vậy tế bào mỡ trưởng thành có khả năng bài tiết
cytokine và hoạt hóa bổ thể tương tự như các tế bào đơn nhân.[42].
Các adipokine được sản sinh từ mô mỡ trắng có vai trò quan trọng
trong các bệnh lý như đái tháo đường typ 2, hội chứng chuyển hóa, xơ vữa
động mạch, bệnh động mạch vành.[43]. Chúng cũng có vai trò quan trọng
trong các quá trình miễn dịch và quá trình viêm trong cơ thể. Các adipokine
này có tác dụng trên các mơ đích như màng hoạt dịch, sụn, xương và các tế
bào miễn dịch, vì vậy chúng có vai trò trong nhiều bệnh lý cơ xương khớp nói
chung và bệnh thối hóa khớp gối nói riêng. [44-46].
14
Hình 1.3. Vai trò của adipokine trong các bệnh lý chuyển hóa và bệnh
viêm mạn tính [45]
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỉ lệ bệnh nhân béo phì mắc các bệnh
lý viêm tự miễn như viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến, bệnh lý cột
sống huyết thanh âm tính cao hơn so với quần thể dân số chung. Cùng với đó,
những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và béo phì có mức độ hoạt động của
bệnh cũng như độ nặng lớn hơn cũng như khả năng đáp ứng điều trị với
DMARDs, corticoid và các thuốc sinh học kém hơn so với nhóm bệnh nhân
khơng béo phì [44, 47-49]. Trong viêm khớp dạng thấp, những bệnh nhân có
nồng độ adiponectin trong máu càng cao thì có tổn thương khớp trên phim X
– quang càng nặng [50, 51].
15
Hình 1.4. Vai trò của adiponectin trong viêm khớp dạng thấp và vai trò
của leptin thối hóa khớp [50].
1.2.2. Vai trò của trọng lượng cơ thể trong bệnh thối hóa khớp.
Như đã đề cập ở phần 1.1.1 béo phì là một trong số các yếu tố nguy cơ
của thối hóa khớp nói chung và thối hóa khớp gối nói riêng. Những bệnh
nhân béo phì có nguy cơ mắc thối hóa khớp gối cao gấp 2.81 lần, thối hóa
khớp bàn tay cao gấp 2.59 lần [52]. Một trong những ngun nhân dẫn tới tỉ
lệ thối hóa khớp ở người béo phì cao hơn là do sự quá tải trọng lực tác động
lên khớp. Tuy nhiên điều này khơng lý giải được hiện tượng ở bệnh nhân béo
phì có nguy cơ thối hóa các khớp khơng chịu lực như khớp bàn tay, khớp cổ
tay cao hơn người bình thường [13, 52]. Sở dĩ có tình trạng trên là do những
bệnh nhân béo phì có số lượng và kích thước mô mỡ trắng lớn hơn. Các mô
mỡ này sản sinh ra nhiều các adipokine và các chất trung gian gây viêm, như
đã đề cập ở phần 1.2.1, chúng được giải phóng vào trong máu và tới tác động
đến các thụ thể nằm trên các thành phần cấu trúc của khớp như sụn khớp,
16
màng hoạt dịch làm tăng nồng độ các chất gây viêm tại chỗ, thúc đẩy quá
trình viêm tại đây, hậu quả làm tăng nguy cơ thối hóa khớp kể cả với các
khớp không chịu lực [13, 14, 45, 53]. Nồng độ adipokine trong máu tăng cũng
tỉ lệ thuận với mức độ đau khớp của bệnh nhân [11].
Khớp gối cùng với các khớp khác cũng là nơi chịu tác động của các
adipokine sinh ra từ mô mỡ trắng [13, 19, 45]. Một trong các adipokine này
là leptin. Đây là một hormone peptid có trọng lượng phân tử 16 kDa, được
sản xuất chủ yếu bởi tế bào mỡ. Nồng độ leptin trong máu tăng cùng trọng
lượng mô mỡ trắng trong cơ thể. Leptin có ảnh hưởng lên hệ thống miễn dịch
cơ thể thông qua hoạt động giống như một cytokine tiển viêm. Leptin có khả
năng thúc đẩy sự sản xuất ra matrix metalloprotein (MMP), các chất trung
gian tiền viêm và nitric oxide trên các tổ chức có thụ thể với nó. Trên bệnh
nhân béo phì nồng độ leptin trong dịch hoạt dịch tăng lên kích thích sản xuất
các chất tiền viêm này thúc đẩy quá trình phá hủy cấu trúc sụn khớp.[54].
Những bệnh nhân có nồng độ leptin trong máu cao > 5 ng/ml có khả năng
mắc thối hóa khớp gối cao hơn [55].
17
1.2.3. Mô mỡ trong khớp gối người bình thường và người THK gối
Khớp gối người bình thường có 3 cấu trúc mơ mỡ chính đó là khoang
mỡ dưới xương bánh chè, khoang mỡ trên xương bánh chè sau cơ tứ đầu đùi,
khoang mỡ trước xương đùi.
Các túi mỡ này cũng thuộc cấu trúc mô mỡ trắng của cơ thể nhưng
chúng có khác biệt với mơ mỡ dưới da vì khả năng bài tiết ra nhiều hơn các
chất trung gian gây viêm như IL-6, IL-8, PGE2 thúc đẩy q trình viêm và
đóng góp vào sự khởi phát tình trạng thối hóa khớp gối.Ngun nhân của
hiện tượng này là do các mô mỡ trong khớp gối và khớp háng biểu hiện ít
kiểu hình có vai trò trong q trình tạo mỡ hơn là kiểu hình có vai trò trong
q trình viêm và tái cấu trúc mơ sợi [56].
1.2.4. Khoang mỡ dưới xương bánh chè: giải phẫu, vai trò
1.2.4.1. Giải phẫu khoang mỡ dưới xương bánh chè
Hình 1.5. Giải phẫu khoang mỡ dưới xương bánh chè.Netter, Frank H,
MD. Atlas of Human Anatomy. ICON Learning Systems, New Jersey
1997. Plate 476
18
Vị trí giải phẫu
Khoang mỡ dưới xương bánh chè hay còn gọi là khoang mỡ Hoffa lần
đầu tiên được mơ tả bởi Albert Hoffa năm 1904.[57]. Khoang mỡ này nằm
dưới xương bánh chè, sau gân bánh chè, trước lồi cầu xương đùi và mâm
chày. Khoang mỡ Hoffa là một cấu trúc mơ mỡ khớp gối chính trong ba cấu
trúc mơ mỡ ở phía trước khớp gối, 2 cấu trúc còn lại là khoang mỡ trên gân tứ
đầu đùi và khoang mỡ trước xương đùi, trên xương bánh chè. Khoang mỡ này
nằm trong bao khớp và phía trước màng hoạt dịch, nó được bao phủ ở phía
sau bởi màng hoạt dịch khớp. Nó có một thân ở trung tâm và 2 cánh mở rộng
giữa và 2 bên [58, 59].
Hình 1.6. Khoang mỡ Hoffa nhìn từ phía sau: a. giới hạn phía trên, b:
phâc mở rộng sang phía giữa, c: phần mở rộng sang phía bên, d: thân
trung tâm, e: xương bánh chè, f: xương đùi.[58].
Hình 1.7. Khoang mỡ Hoffa nhìn từ hướng sau dưới: a. thân trung tâm,
b: mở rộng phía bên, c : mở rộng phía giữa, d: đầu trên với phần bám
của màng hoạt dịch.[58]