Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 111 trang )
76
của Bùi Hải Bình với tỉ lệ 1,6% [35], nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh
Phượng 2,9% [90].
Gai xương được xem là dấu hiệu đặc trưng ở bệnh nhân thối hóa khớp
gối và sự có mặt của gai xương được coi là một trong những tiêu chuẩn chẩn
đốn thối hóa khớp gối. Tỉ lệ gai xương phát hiện trong nghiên cứu của
chúng tơi là 83,2%, chủ yếu ở vị trí khe đùi chày trong. Tỉ lệ này trong nghiên
cứu của Nguyễn Thị Thanh Phượng là 84,2%; nghiên cứu của Bùi Hải Bình
82%, Lê Thị Liễu 53,8% [35, 89, 90]. Kết quả của chúng tôi tương tự như kết
quả của các tác giả Bùi Hải Bình và Nguyễn Thị Thanh Phượng, cao hơn một
chút khi so sánh với kết quả của tác giả Lê Thị Liễu. Tỉ lệ gặp gai xương trên
siêu âm trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao cho thấy siêu âm là phương
pháp có hiệu quả trong phát hiện tổn thương gai xương tại khớp gối.
Siêu âm cũng được sử dụng để đánh giá sụn khớp phần bao phủ lồi cầu
xương đùi. Trong nghiên cứu của chúng tôi bề dày sụn khớp trung bình bao
phủ lồi cầu xương đùi lần lượt là: lồi cầu ngoài 1,84 ± 0,5 mm; lồi cầu
trong 1,91 ± 0,49 mm; liên lồi cầu 2,12 ± 0,55 mm. Theo nghiên cứu của
Ozcakar và cộng sự năm 2014 đánh giá trên 1544 người tình nguyện khỏe
mạnh bề dày sụn trung bình ở người bình thường lần lượt là 2,2 ± 0,5 mm
tại vị trí lồi cầu ngồi; 2,3 ± 0,6 mm tại vị trí liên lồi cầu; 2,2 ± 0,5 tại vị trí
lồi cầu trong [69]. Như vậy bề dày sụn trung bình của bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi mỏng hơn ở người bình thường. Kết quả này của
chúng tơi phù hợp với kết quả nhận được từ nghiên cứu của Nguyễn Thị
Thanh Phượng trên 246 khớp gối: chiều dày trung bình của nhóm bệnh
nhân thối hóa khớp ở các vị trí lồi cầu ngoài là 1,7 ± 0,6 mm; lồi cầu trong
là 1,9 ± 0,5 mm; diện gian lồi cầu là 2,0 ± 0,5 mm trong khi các chỉ số
tương ứng ở nhóm chứng khơng thối hóa khớp gối lần lượt là 2,0 ± 0,3
cm; 2,0 ± 0,2 mm; 2,4 ± 0,3 mm; chiều dày sụn ở vị trí lồi cầu trong thấp
77
hơn so với người bình thường [90]. Theo Bùi Hải Bình (2016) bề dày sụn
khớp tại các vị trí lồi cầu ngoài là 2,0 ± 0,63 mm; lồi cầu trong 1,8± 0,52
mm, liên lồi cầu 2,2 ± 0,58 mm.[35]. Tỉ lệ bệnh nhân có bề dày sụn mỏng
hơn người bình thường (lấy từ nghiên cứu của Ozcakar và cộng sự năm
2014 [69]) là 88,8%; tỉ lệ này thấp hơn một chút khi so sánh với nghiên
cứu của Lê Thị Liễu (100% khớp gối có biểu hiện mỏng sụn) [89].
Các kích thước khoang mỡ Hoffa trên siêu âm ở nữ lần lượt là: chiều
ngang 6,17 ± 0,84 cm; chiều sâu 1,96 ± 0,26 cm; diện tích khoang mỡ theo
mặt cắt đứng dọc 5,2 ± 0,89 cm 2; các kích thước này ở nam lần lượt là 6,12 ±
1,1 cm; 2,23 ± 0,17 cm và 6,37 ± 1,1 cm 2. Chiều sâu và diện tích khoang mỡ
Hoffa theo mặt cắt đứng dọc ở nam lớn hơn ở nữ, khác biệt có ý nghĩa thống
kê. Theo nghiên cứu của Diepold và cộng sự năm 2015 ở Mỹ trên 99 khớp gối
của người bình thường được chụp MRI, chiều sâu khoang mỡ Hoffa ở nam là
1,4 ± 0,14 cm; ở nữ là 1,25 ± 0,14 cm; diện tích khoang mỡ theo mặt cắt đứng
dọc ở nam là 21,4 ± 3,5 cm 2; ở nữ 16,9 ± 2,7 cm 2; diện tích và chiều sâu
khoang mỡ Hoffa ở nam cao hơn ở nữ, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <
0,001) [60]. Diện tích khoang mỡ Hoffa theo mặt cắt đứng dọc trong nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của Diepold. Điều này có thể do
đối tượng nghiên cứu của Diepold là người Mỹ, có tầm vóc lớn hơn người
Việt Nam.
4.2. Mối liên quan giữa đặc điểm khoang mỡ Hoffa và một số yếu tố lâm
sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân thối hóa khớp gối ngun phát.
4.2.1. Liên quan giữa các kích thước khoang mỡ Hoffa với tuổi bệnh nhân
Khoang mỡ Hoffa là mô mỡ nằm ngay sau gân bánh chè, có cấu trúc
giống như các mơ mỡ dưới da khác trong cơ thể. Cùng với sự gia tăng về tuổi
tác, có sự thay đổi về chuyển hóa tất cả các chất trong cơ thể, do đó cấu trúc
78
các mơ mỡ dưới da và các mô mỡ trong cơ thể cũng có sự thay đổi. Trên
những bệnh nhân lớn tuổi, đặc biệt từ độ tuổi trên 70, các mô mỡ dưới da trở
nên mỏng đi cùng với sự tăng tích lũy mỡ trong ổ bụng và các tạng như gan,
thận [91]. Trong nghiên cứu của chúng tơi diện tích theo mặt cắt đứng dọc của
khoang mỡ Hoffa ở lứa tuổi từ 70 trở lên thấp hơn khi so sánh với nhóm tuổi
từ 40 - 59 và nhóm tuổi từ 60 - 69. Có mối tương quan tuyến tính nghịch yếu
giữa độ sâu và diện tích khoang mỡ với tuổi của bệnh nhân.
4.2.2. Liên quan giữa các kích thước khoang mỡ Hoffa với chỉ số khối cơ thể.
Trên bệnh nhân thừa cân, béo phì có hiện tượng tăng tích lũy mỡ tại các
mơ mỡ do đó làm tăng kích thước các mơ mỡ này. Trong nghiên cứu của
chúng tơi có sự khác biệt về độ sâu khoang mỡ giữa các nhóm bệnh nhân có
chỉ số khối cơ thể thuộc các nhóm khác nhau: độ sâu khoang mỡ thấp nhất ở
nhóm thiếu cân, cao nhất ở nhóm thừa cân béo phì. Chúng tơi cũng tìm thấy
mối tương quan tuyến tính thuận yếu giữa độ sâu, diện tích mặt cắt đứng dọc
khoang mỡ Hoffa với chỉ số khối cơ thể.
Khi xem xét mối tương quan đa biến giữa chiều sâu khoang mỡ Hoffa
và các yếu tố tuổi và chỉ số khối cơ thể bệnh, chúng tơi thấy có mối tương
quan yếu (r = 0,391; p < 0,001). Phương trình tuyến tính được hiểu là:
Độ sâu khoang mỡ Hoffa (cm) = 0,03 x BMI - 0,003 x Tuổi + 1,466
Trong đó: BMI: kg/m2, Tuổi: năm.
Đánh giá mối tương quan đa biến giữa diện tích khoang mỡ Hoffa theo
mặt cắt đứng dọc với các chỉ số tuổi và chỉ số khối cơ thể chúng tôi cũng thấy
có mối tương quan yếu ( r = 0,427; p < 0,001). Phương trình tuyến tính được
hiểu là:
Diện tích theo mặt cắt đứng dọc (cm2) = 4,57 + BMI x 0,078 - 0,017 x Tuổi
79
Trong đó: BMI: kg/m2; Tuổi: năm.
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Diepold
và cộng sự năm 2014 trên 99 khớp gối bình thường, có mối tương quan tuyến
tính thuận giữa thể khoang mỡ Hoffa với cân nặng cơ thể (r = 0,34; p = 0,03 <
0,05 ở nữ và r = 0,5; p < 0,001 ở nam) [60]. Kết quả của chúng tơi và Diepold
cho thấy kích thước của khoang mỡ Hoffa nói riêng và mơ mỡ nội khớp gối
nói chung có thể phụ thuộc vào mức độ béo phì ở cả nam và nữ.
4.2.3. Liên quan giữa các kích thước của khoang mỡ Hoffa với giới tính.
Khi so sánh các kích thước khoang mỡ Hoffa giữa nam và nữ, chúng tơi
thấy rằng độ sâu và diện tích theo mặt cắt đứng dọc khoang mỡ ở nam cao
hơn ở nữ, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Khơng có sự khác biệt
khi so sánh chiều ngang khoang mỡ Hoffa ở nam và nữ. Kết quả này phù hợp
với kết quả của Diepold và cộng sự năm 2014 trên 99 khớp gối bình thường
được chụp MRI: độ sâu khoang mỡ ở nam cao hơn ở nữ 12% (p < 0,001),
diện tích theo mặt cắt đứng dọc ở nam cao hơn ở nữ 27%, thể tích khoang mỡ
ở nam cao hơn nữ 41% [60].
4.2.4. Mối liên quan giữa kích thước và diện tích khoang mỡ Hoffa với
hoạt động chức năng theo thang điểm WOMAC, tổn thương khớp gối trên
Xquang và siêu âm.
Khoang mỡ Hoffa là một trong 3 mơ mỡ nội khớp gối. Vai trò của
khoang mỡ này cũng như các mô mỡ khác trong cơ thể trong cơ chế bệnh sinh
của thối hóa khớp gối ngày càng được quan tâm. Nhiều nghiên cứu gần đây
đã chỉ ra vai trò của các adipokine sản xuất từ các mô mỡ như các chất tiền
viêm, tham gia vào cơ chế bệnh sinh của thối hóa khớp gối. Khoang mỡ
Hoffa cũng có khả năng sản xuất các adipokine như các mô mỡ trắng khác