Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 111 trang )
72
Một nghiên cứu phân tích gộp từ 32 nghiên cứu trong 20 công bố năm 2015
của Jin X và cộng sự chỉ ra rằng nồng độ CRPhs có liên quan tới mức độ đau
khớp (r = 0,14; p < 0,001) và mức độ hạn chế vận động ( r=0,25; p < 0,001),
khơng có mối liên quan nồng độ CRPhs và mức độ nặng của thối hóa khớp
trên Xquang [88]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ CRPhs trong máu
không có tương quan với mức độ đau và tổng điểm WOMAC trên lâm sàng
( r < 0,25; p = 0,65), nhưng có mối tương quan tuyến tính yếu với mức độ hạn
chế vận động trên lâm sàng ( r = 0,289; p = 0,01 < 0,05). Những bệnh nhân có
xét nghiệm CRPhs ≥ 0.5 mg/dl có tổn thương khớp gối ở giai đoạn nặng hơn
so với những bệnh nhân có xét nghiệm CRPhs bình thường.Trong số bệnh
nhân được làm xét nghiệm CRPhs, chỉ có 4 (trong tổng số 41 bệnh nhân)
chiếm tỉ lệ 9,8% có CRPhs ≥ 5 mg/dl. Lý giải điều này chúng tơi cho rằng
trong thối hóa khớp gối có hiện tượng viêm do các mảnh sụn vỡ, hoại tử trờ
thành các vật lạ trôi nổi trong ổ khớp gây nên phản ứng viêm thứ phát của
màng hoạt dịch. Vì vậy biểu hiện viêm trong thối hóa khớp không nặng nề
như trong các bệnh lý khớp viêm. Trong khi đó CRPhs là protein phản ứng
pha cấp phản ánh mức độ viêm trong cơ thể. Mối tương quan tuyến tính giữa
nồng độ protein này trong máu với mức độ hạn chế chức năng vận động trên
lâm sàng và độ nặng của thối hóa khớp trên Xquang một lần nữa khẳng định
cơ chế bệnh sinh phối hợp giữa các yếu tố cơ học và đáp ứng viêm tại chỗ
cũng như tồn thân của bệnh thối hóa khớp. Đồng thời chúng ta có thể sử
dụng xét nghiệm CRPhs để chẩn đốn phân biệt cũng như tiên lượng bệnh
thối hóa khớp gối.
Có tới 82,9% bệnh nhân trong nghiên cứu có biểu hiện rối loạn lipid máu
khi làm xét nghiệm. Lí giải điều này chúng tôi cho rằng các bệnh nhân trong
nghiên cứu đều ở lứa tuối > 40 trở lên có nguy cơ mắc phải rối loạn lipid máu.
Trong số các bệnh nhân có rối loạn lipid máu có 58,8% là thuộc nhóm thừa
73
cân hoặc béo phì. Khả năng mắc rối loạn lipid máu của bệnh nhân thuộc
nhóm thừa cân hoặc béo phì cao hơn nhóm có chỉ số khối cơ thể bình thường
hoặc thiếu cân 8,57 lần.
4.1.3.2. Đặc điểm Xquang khớp gối.
Gai xương, hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn là những đặc điểm gặp ở
tất cả các khớp gối được chụp Xquang. Kết quả này của chúng tôi cao hơn so
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Phượng năm 2015 trên 246 khớp gối
với tỉ lệ gặp gai xương là 89,6%; hẹp khe khớp 39,4%; đặc xương 33,3%
[78], hay trong nghiên cứu của Đặng Hồng Hoa trên 42 bệnh nhân tỉ lệ gai
xương là 85,7%; hẹp khe khớp 83,3% và đặc xương 78,6% [79]. Kết quả này
có thể do 59% bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tơi thuộc nhóm bệnh
nhân nội trú với biểu hiện đau khớp nhiều cần phải nhập viện và tổn thương
trên Xquang khớp gối cũng nặng hơn trong khi trong đối tượng nghiên cứu
của Nguyền Thị Thanh Phượng ngoài những bệnh nhân được khám ngoại trú
và điều trị nội trú tại khoa Cơ xương khớp bệnh viện Bạch Mai còn bao gồm
cả những bệnh nhân khám ngoại trú tại phòng khám A, bệnh viện Hữu Nghị
là nơi khám chữa bệnh ban đầu. Gai xương là dấu hiệu đặc trưng ở bệnh nhân
thối hóa khớp, được hình thành do đáp ứng của sụn khớp và xương dưới sụn
với lực cơ học bất thường. Dấu hiệu có gai xương rìa khớp gối đã được ACR
đưa vào trong tiêu chuẩn chẩn đốn thối hóa khớp gối năm 1991. Tổn
thương gai xương có thể gặp ở nhiều vị trí, ở nghiên cứu của chúng tơi có
71,1% bệnh nhân có gai xương ở cả vị trí khe đùi chày trong và khe đùi chày
ngồi; có tới 90,8% bệnh nhân có gai xương ở vị trí khe đùi chày trong. Lí
giải điều này chúng tôi cho rằng khe đùi chày trong là vị trí hay chịu lực tác
dụng hơn khe đùi chày ngoài trên phần lớn bệnh nhân. Do vậy tỉ lệ gai xương
gặp ở khe đùi chày trong cao hơn so với khe đùi chày ngoài.
74
Trong nghiên cứu của chúng tơi có 19,8% bệnh nhân có biểu hiện lệch
trục khớp gối trong đó 13,9% bệnh nhân có kiểu lệch trục chữ X; 5,9% bệnh
nhân lệch trục chữ O. Kết quả này thấp hơn khi so sánh với nghiên cứu của
Đặng Hồng Hoa với tỉ lệ gặp trục chữ O chiếm 38,1%; trục chữ X chiếm
2,4% [79], nghiên cứu của Bùi Hải Bình với tỉ lệ gặp lệch trục khớp nói
chung là 54,1% trong đó lệch trục chữ O 33,6%; lệch trục chữ X 20,5% [35].
Lệch trục khớp có thể gây nên tình trạng phân bố lực tác động bất thường lên
khớp gối, do đó đây có thể là một yếu tố thuận lợi cho tình trạng thối hóa
khớp gối xảy ra sớm hơn.
100% bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tơi có biểu hiện hẹp khe khớp
trong đó 35,5% có hẹp khe đùi chày trong, 1,3% bệnh nhân có hẹp khe đùi chày
ngồi đơn độc, 63,2% bệnh nhân có hẹp cả khe đùi chày trong và ngoài
Đánh giá tổn thương khớp gối trên Xquang theo Kellgren và Lawrence
cho thấy có tới 80,2% bệnh nhân có tổn thương ở giai đoạn 3 hoặc giai đoạn
4. Kết quả này cao hơn so với trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh
Phượng với tổn thương Xquang nặng chủ yếu ở giai đoạn 3 và 4 theo
Kellgren và Lawrence chiếm tỉ lệ 44,7% [78]. Không có mối liên quan giữa
thời gian bị bệnh thối hóa khớp gối (được tính là thời gian từ lúc biểu hiện
triệu chứng đau khớp tới thời điểm khám bệnh) với mức độ tổn thương khớp
gối trên Xquang theo phân độ của Kellgren và Lawrence. Trong nghiên cứu
của Hồ Phạm Thục Loan và cộng sự năm 2014 trên 658 người dân sống tại
thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ gặp thối hóa khớp gối trên Xquang là khoảng
34,2%; trong số các bệnh nhân thối hóa khớp, số bệnh nhân có biểu hiện đau
khớp là 35% ở nam và 62% ở nữ [2]. Như vậy theo Hồ Phạm Thục Lan số
bệnh nhân thối hóa khớp gối có biểu hiện trên Xquang mà chưa có biểu hiện
lâm sàng là khá cao, đặc biệt ở bệnh nhân nam giới. Vì vậy tình trạng thối
75
hóa khớp gối trên Xquang có thể xảy ra sớm, trước khi có biểu hiện lâm sàng
của thối hóa khớp. Có lẽ chính vì điều này nên mức độ nặng của tổn thương
khớp gối trên Xquang theo phân độ của Kellgren và Lawrence có liên quan
tới thời gian biểu hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân.
4.1.3.3. Đặc điểm siêu âm khớp gối.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra giá trị của siêu âm trong phát hiện các bất
thường trong thối hóa khớp như: tràn dịch khớp, tăng sinh màng hoạt dịch,
gai xương, kén khoeo chân, dị vật trong khớp…. Các tổn thương thường gặp
trên siêu âm khớp trong nghiên cứu của chúng tơi gồm có: tràn dịch khớp với
tỉ lệ 74,3%; gai xương 83,2% (trên Xquang 100%) trong đó gai xương khe đùi
chày trong 98,2% (trên Xquang 90,8%), khe đùi chày ngoài 1,2% (trên
Xquang 9,2%) ; kén Baker 17%; dày màng hoạt dịch 6,9%.
Tỉ lệ bệnh nhân có tràn dịch khớp trong nghiên cứu của chúng tôi là
74,3%. Kết quả này tương tự như trong nghiên cứu trên 246 khớp gối của
Nguyễn Thị Thanh Phượng với tỉ lệ tràn dịch khớp gối là 70,3% và cao hơn
so với nghiên cứu của Lê Thị Liễu đánh giá vai trò của siêu âm khớp trong
chẩn đốn bệnh thối hóa khớp gối trên 130 khớp gối tại khoa Cơ xương khớp
bệnh viện Bạch Mai với tỉ lệ gặp tràn dịch khớp gối là 57,7% [89], nghiên cứu
của Bùi Hải Bình năm 2009 với tỉ lệ gặp tràn dịch khớp gối là 20,5% [35].
Bệnh nhân thối hóa khớp gối có biểu hiện tăng sinh màng hoạt dịch như là
một đáp ứng viêm tại chỗ với các thành phần sụn bong tạo thành các dị vật
trong ổ khớp. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ gặp của tăng sinh màng
hoạt dịch là 6,9%. Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của Lê Thị Liễu
với tỉ lệ gặp tăng sinh màng hoạt dịch là 7,7% [89], cao hơn trong nghiên cứu