1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

CHƯƠNG IV: NHẬN ĐỊNH KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH BAO THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG VIB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.44 KB, 72 trang )


(Nguồn: Trích từ báo cáo tài chính các năm của VIB)

Chúng ta biết rằng, để doanh nghiệp tin tưởng sử dụng dịch vụ của ngân hàng thì

năng lực tài chính hiện tại cũng như lợi nhuận mà ngân hàng đó thu được qua các năm

phải đủ để chứng minh được tiềm lực nội tại của ngân hàng đó.

Mặc dù, lợi nhuận năm 2011 so với năm 2010 có sự sụt giảm đáng kể nhưng đó là

tình hình chung của các ngân hàng thương mại trong năm vừa qua khi nền kinh tế nước

ta gặp nhiều khó khăn. Còn đánh giá theo một cách tổng quan thì tốc độ tăng trưởng lợi

nhuận qua ba năm vừa qua của VIB vẫn thật sự là một con số đáng kể và nó cũng phần

nào chứng tỏ được sự ổn định của VIB trong mắt cộng đồng doanh nghiệp để họ có thể

tin tưởng sử dụng những dịch vụ mà VIB cung cấp và bao thanh toán là một trong số

đó.

1.1.2. Đội ngũ nhân viên trẻ và ham học hỏi

Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới vốn luôn biến động không ngừng

thì việc bỏ sung nguồn nhân lực có chất lượng là một trong các vấn đề mang tính chiến

lược của bất kỳ một ngân hàng nào. Vì lẽ đó mà trong những năm qua, các ngân hàng

đã có những sự đầu tư mạnh mẽ trong việc tuyển dụng nguồn nhân lực của mình. Số

lượng cán bộ, nhân viên ngân hàng luôn tăng đều qua các năm và VIB cũng không phải

là ngoại lệ.

Hình 8: Tốc độ tăng trưởng số lượng nhân viên của VIB.

(Nguồn: Trích từ báo cáo thường niên các năm của ngân hàng VIB)

Với sự tăng trưởng về mặt nhân sự như trên theo xu hướng trẻ hóa đội ngũ nhân

viên thì hy vọng với sức trẻ cùng tinh thần ham học hỏi của tuổi trẻ sẽ giúp cho VIB đạt

được những thành công mới trong tương lai, và đặc biệt là gia tăng khả năng phát triển

loại hình bao thanh toán quốc tế vốn có những yêu cầu cao về trình độ ngoại ngữ và

kiến thức chuyên môn của đội ngũ nhân viên.

1.1.3. Hạ tầng công nghệ thông tin ngân hàng khá mạnh

Chúng ta biết rằng, để thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán thì đòi hỏi ngân hàng

phải có mạng lưới công nghệ thông tin tốt để đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ. Chính vì

thế, vấn đề công nghệ thông tin ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay đã trở

thành một trong những yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của một ngân hàng này với

ngân hàng khác.

49



Về các giao dịch trong nước

Hầu hết các ngân hàng chứ không riêng gì VIB đều đã triển khai sử dụng phần

mêm CoreBanking – phần mềm tốt nhất để quản lý khách hàng.

Nếu như trước đây khi khách hàng gửi tiền gửi ở đâu thì phải đến đó để rút tiền

chứ không thể rút ở điểm giao dịch khác, mặc dù các điểm này đều trong cùng hệ thống

một ngân hàng. Nhờ sự ra đời của core banking, khách hàng chỉ cần có một mã duy nhất

ở ngân hàng là có thể giao dịch với rất nhiều sản phẩm và ở bất cứ điểm giao dịch nào

trong cùng hoặc không trong cùng một hệ thống.

Ngoài ra, việc phát triển loại hình Internet Banking và Mobile Banking cũng đã

mang lại lợi ích to lớn cho cả khách hàng và ngân hàng. Giờ đây, chỉ cần soạn một tin

nhắn và gửi là khách hàng có thể kiểm tra được chính xác số dư tài khoản của mình là

bao nhiêu mà không cần phải đi đến tận ngân hàng như trước kia.

Về các giao dịch quốc tế

Chúng ta biết rằng, tất cả các ngân hàng trên thế giới đều nối mạng SWIFT để

thực hiện các giao dịch liên ngân hàng với nhau và bao thanh toán cũng không phải

ngoại lệ. Hiện nay, tất cả các ngân hàng đều đã có mạng SWIFT riêng. Do đó, khách

hàng có thể dễ dàng sử dụng các dịch vụ quốc tế của ngân hàng, trong đó có bao thanh

toán xuất nhập khẩu.

Ngoài ra, nhờ những tính năng tuyệt vời của Core Banking mà ngân hàng có thể

dễ dàng đưa thêm dịch vụ bao thanh toán vào hoạt động kinh doanh mà không cần phải

thực hiện các biện pháp chỉnh sữa code vốn rất phức tạp.

“…Năm 2010, VIB cũng đã đưa thêm ứng dụng các phần mềm chuyên dụng cho

hoạt động bao thanh toán như Factoring Softwear, Factoring Casestudy,… nhằm giúp

cho hoạt động bao thanh toán trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt là loại hình bao thanh toán

xuất nhập khẩu...”

(Nguồn: Trích từ “Báo cáo thường niên năm 2010” của VIB).

Bên cạnh các yếu tố nội tại thì cũng có nhiều yếu tố thuận lợi bên ngoài để ngân

hàng VIB có thể đẩy mạnh việc phát triển loại hình bao thanh toán quốc tế.



50



1.2. Yếu tố bên ngoài

1.2.1. Tình hình xuất nhập khẩu của nước ta có mức tăng tương đối ổn định

Nhìn chung, trong ba năm vừa qua, mặc dù nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó

khăn, song hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn diễn ra khá tốt. Kim ngạch xuất

nhập khẩu của nước ta vẫn tăng trưởng đều với các mặt hàng chiến lược như: gạo, cà

phê, hạt tiêu…

Hình 9: Tình hình xuất nhập khẩu trong ba năm 2009, 2010, 2011 của Việt Nam.

(Nguồn: Web Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn)

Với sự tăng trưởng trên, chúng ta thấy rõ rằng các doanh nghiệp Việt Nam đã tự

tin và có những chiến lược cụ thể cho việc vươn ra thị trường thế giới. Kim ngạch xuất

nhập khẩu luôn tăng đều qua các năm và đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển

của nền kinh tế nước nhà. Đi cùng với sự phát triển này chắc chắn sẽ là nguyện vọng

được giảm thiểu rủi ro trong giao dịch thanh toán quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ ở

thị trường tài chính nước ta trong thời gian qua cùng việc nền kinh tế nước ta đang có

những bước chuyển mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới thì chắc chắn, bao thanh

toán xuất nhập khẩu sẽ là một lựa chọn đáng lưu tâm cho cả doanh nghiệp và ngân hàng

VIB bởi những lợi ích vốn có của nó.



51



1.2.2. Nhu cầu hỗ trợ được hỗ trợ về vốn của các doanh nghiệp của các

doanh nghiệp xuất khẩu

Như vừa trình bày ở trên, hoạt động xuất khẩu nước ta những năm vừa qua tuy đã

có những bước phát triển mạnh mẽ thể hiện ở cả chất và lượng, song vẫn còn nhiều hạn

chế. Thực tế, doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động xuất khẩu, đặc

biệt là nhu cầu bổ sung vốn cho các hoạt động sản xuất hậu xuất khẩu.

Theo kết quả vừa được công bố vào ngày 31 tháng 10 năm 2012 của bộ Công

thương về “Điều tra, khảo sát các doanh nghiệp tham gia xuất - nhập khẩu của Việt

Nam”, có những điểm chính mà ta cần lưu ý:

Bảng 11: Những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp xuất khẩu phát triển.

STT



NHỮNG ĐIÊU KIỆN QUAN TRỌNG

NHẤT ĐỂ DOANH NGHIỆP PHÁT

TRIỂN



SỐ LƯỢNG

DOANH

NGHIỆP



TỶ

TRỌNG

(%)



1.



Vốn kinh doanh



64



32,0



2.



Công nghệ, máy móc thiết bị



32



16,0



3.



Thông tin thị trường, giá cả



30



15



4.



Lao động có chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ



28



14,0



5.



Thể chế môi trường kinh doanh



27



13,5



6.



Điều kiện tiếp cận thị trường thế giới



19



9,5



200



100



Tổn

g



(Nguồn: Kết quả Điều tra, khảo sát các doanh nghiệp tham gia xuất - nhập khẩu của

Việt Nam của Bộ công thương công bố ngày 31 tháng 10 năm 2012.

http://viennghiencuuthuongmai.com.vn/tapchi/NewDetails.aspx?Id=21)

− Thứ nhất: có đến 32% doanh nghiệp nghĩ rằng vốn kinh doanh là điều kiện quan

trọng nhất của doanh nghiệp.

Rõ ràng, với những tính năng là ứng trước một lượng vốn lớn (thường là 85%) khi

áp dụng hình thức bao thanh toán xuất nhập khẩu thật sự là một lựa chọn đáng để cho

tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu phải chú ý. Với lượng vốn này, doanh nghiệp có thể

giải quyết phần nào bài toán về dòng tiền hậu xuất khẩu để tiếp tục hoạt động sản xuất

kinh doanh của mình thay vì phải đợi để nhận được tiền khi nhà nhập khẩu thanh toán.



52



Ngoài ra, rủi ro mất khả năng thanh toán hoặc không thanh toán từ phía nhà nhập

khẩu cũng sẽ được chia sẻ bởi ngân hàng VIB. Thực tế cho thấy, có rất nhiều doanh

nghiệp vì không chú trọng đến dòng ngân lưu cho doanh nghiệp của mình mà đã dẫn

đến phải phá sản.

− Thứ hai: có đến 32% doanh nghiệp nghĩ rằng thông tin thị trường, giá cả là điều

kiện quan trọng của doanh nghiệp.

Trong thực tế, việc thiếu thông tin sẽ khiến các doanh nghiệp nước ta khó đánh

giá đầy đủ về bạn hàng của mình. Thông tin cần phải tin cậy, chính xác mới đảm bảo

cho doanh nghiệp yên tâm hơn khi thực hiện xuất khẩu, tránh được rủi ro từ phía đối

tác, đảm bảo thu nợ từ phía nhà nhập khẩu.

Với nghĩa vụ cung cấp những tiện ích cho khách hàng về thông tin tài chính, tình

hình kinh doanh của người mua mà VIB mang đến chính là một trong những lợi ích mà

nhà xuất khẩu có được khi sử dụng dịch vụ này. Đây thật sự là một điều thuận lợi để các

doanh nghiệp xuất khẩu có thể nắm bắt được phần nào uy tín tín dụng về bạn hàng của

mình thông qua công tác thẩm định của ngân hàng đại lý tại nước nhập khẩu mặc dù

những thông tin mà ngân hàng VIB cung cấp cho doanh nghiệp cũng chỉ mang tính

“tương đối”.

Song, điều này cũng đã cho thấy ngân hàng VIB hiện nay cũng đang cố gắng

chung vai chia sẻ phần nào khó khăn đối với doanh nghiệp. Việc làm trên sẽ tạo thêm

động lực để doanh nghiệp thay đổi những phương thức bán hàng truyền thống vốn

mang lại nhiều rủi ro.

Tóm lại, với những thuận lợi tư các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài vưa

trình bày, chúng ta có thể nhận ra được tiềm năng phát triển loại hình dịch vụ bao

thanh toán quốc tế là rất lớn ở ngân hàng VIB. Thông qua những cải tiến trong bộ

máy hoạt động ngân hàng theo hướng ngày càng hiện đại và cập nhật những kiến

thức mới nhất tư các ngân hàng thế giới cùng với nhu cầu cần được hỗ trợ về vốn

của các doanh nghiệp chắc chắn sẽ là bàn đạp cho loại hình bao thanh toán quốc tế

phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi vẫn còn có nhiều những khó khăn cần được

khắc phục để loại hình bao thanh toán này có thể phát triển hơn.

2. Các khó khăn gặp phải

2.1. Pháp luật về bao thanh toán của nước ta còn nhiều khác biệt so với thế giới

53



Chúng ta biết rằng, để một loại hình tài trợ thương mại có ý nghĩa về nhiều mặt

như bao thanh toán được sử dụng một cách rộng rãi trong thực thế thì những cơ sở pháp

luật liên quan đến nó là một điều kiện hết sức quan trọng quyết định sự thành công khi

áp dụng vào trong thực tiễn. Tuy nhiên, cũng theo kết quả vừa được công bố vào ngày

31 tháng 10 năm 2012 của bộ Công thương về “Điều tra, khảo sát các doanh nghiệp

tham gia xuất - nhập khẩu của Việt Nam”, các quy định pháp luật chính là khó khăn

quan trọng thứ 2 để họ tiếp cận với thị trường xuất khẩu.

Bảng 12: Những yếu tố gây cản trở nhất cho doanh nghiệp xuất khẩu phát triển.

NHỮNG YẾU TỐ GÂY CẢN TRỞ NHẤT

STT

CHO DOANH NGHIỆP



SỐ LƯỢNG

DOANH

NGHIỆP



TỶ

TRỌNG

(%)



1.



Vốn tín dụng và lãi suất ngân hàng



90



45



2.



Qui định pháp luật



29



14,5



3.



Giá thuê đất cao



22



11



4.



Thủ tục phí



22



11



5.



Phí vận tải, bưu điện



11



5,5



6.



Phí vệ sinh, môi trường



11



5,5



7.



Phí tiếp thị



15



7,5



200



100



Tổn

g



(Nguồn: “Kết quả Điều tra, khảo sát các doanh nghiệp tham gia xuất - nhập khẩu của

Việt Nam” do Bộ công thương công bố ngày 31 tháng 10 năm 2012.

http://viennghiencuuthuongmai.com.vn/tapchi/NewDetails.aspx?Id=21)

Liệu rằng, với khoảng thời gian được đưa vào áp dụng chưa được bao lâu, loại

hình bao thanh toán đã có cơ sở pháp luật thực sự đầy đủ và rõ ràng cho việc áp dụng

vào thực tiễn hay chưa ?



Hiện nay, pháp luật liên quan đến hoạt động bao thanh toán chỉ gói gọn trong

“quy chế về hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng” theo quyết định số

1096/2004/QĐ-NHNN ban hành 6 tháng 9 năm 2004 và “Quyết định sửa đổi, bổ sung



54



một số điều của quy chế hoạt động bao thanh toán” theo quyết định số 30/2008/QĐNHNN ban hành ngày 16 tháng 10 năm 2008. Thực tế cho thấy, quá trình áp dụng pháp

lệnh này vào thực tế cũng còn khá nhiều bất cập, cụ thể là:

− Điều 2 trong bộ luật có quy định khái niệm rằng: “…Bao thanh toán là một hình

thức cấp tín dụng…”. Chính việc quy định như vậy vô tình đã tạo nên sự nhập

nhằng trong quá trình thực hiện bao thanh toán bởi hai lí do sau:

 Thứ nhất: Với những tính năng ưu việt của mình mà bao thanh toán là hình

thức tài trợ xuất khẩu được sử dụng rất phổ biến trên thế giới. Chính lí do này

mà hiệp hội bao thanh toán quốc tế (FCI) đã ra đời và trong quy định của mình,

FCI đã định nghĩa về bao thanh toán như sau:

“Bao thanh toán là một công cụ tài chính trọn gói hoàn toàn bao gồm tài trợ vốn

lưu động, phòng ngừa rủi ro không thanh toán từ phía người mua, quản lý các khoản

phải thu và dịch vụ thu nợ. Nó được cung cấp dựa trên sự thoả thuận giữa đơn vị bao

thanh toán và người bán. Theo đó, đơn vị bao thanh toán sẽ mua lại những khoản phải

thu của người bán (thường là không truy đòi), đồng thời nhận trách nhiệm về khả năng

chi trả của con nợ. Nếu con nợ phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín

dụng thì đơn vị bao thanh toán sẽ thanh toán cho người bán”.

(Nguồn: Trích “Định nghĩa bao thanh toán” của FCI).

Rõ ràng, bao thanh toán ngoài ý nghĩa về mặt tài trợ xuất khẩu, thì các đơn vị thực

hiện bao thanh toán còn cung cấp các dịch vụ đi kèm như theo dõi sổ sách, thu nợ và

bảo hiểm rủi ro cho các khoản phải thu. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa hình thức

“cho vay” và hình thức “bao thanh toán”.

 Thứ hai: Quy định khái niệm như thế dễ dẫn đến hiểu lầm rằng khoản phải thu

được bao thanh toán vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà xuất khẩu, và bao thanh

toán giống như hình thức cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là khoản phải thu.

Đây rõ ràng là một hiểu lầm dẫn đến sai lệch hoàn toàn về mặt ý nghĩa của bao

thanh toán.



Nếu như đối với hình thức cấp tín dụng thông thường thì sau khi cấp tín dụng,

quyền sở hữu tài sản đem đi đảm bảo (nếu có) vẫn thuộc về người đi vay. Trong khi đó,

đối với bao thanh toán, khi khoản phải thu đã được bao thanh toán thì quyền sở hữu



55



khoản phải thu thuộc về chính đơn vị thực hiện bao thanh toán. Đơn vị bao thanh toán

sẽ thu nợ với tư cách là chủ nợ của khoản phải thu. Chính những quy định thiếu tính

đồng thuận với các quy định trên thế giới mà nhiều người hiểu rằng khoản ứng trước chỉ

là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là thuộc quyền sở hữu của người bán. Điều

này dẫn đến những rủi ro cho đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi

nợ từ người bán sang mình.

− Ngoài ra, ở điều 13 trong bộ luật bao thanh toán của nước ta, khoản 1, điểm D, Đ

được sửa đổi theo “Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế hoạt

động bao thanh toán” theo quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN ban hành ngày 16

tháng 10 năm 2008 có nêu rõ:

“ D. Bên bán hàng gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua

hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi

nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán cho đơn vị bao

thanh toán.

Đ. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc

đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh

toán. Trường hợp bên mua hàng không có văn bản cam kết thực hiện thanh toán cho

đơn vị bao thanh toán thì việc tiếp tục thực hiện bao thanh toán giữa bên bán và đơn vị

bao thanh toán sẽ do hai bên quyết định và tự chịu trách nhiệm”.

Việc quy định như thế ở điểm D thật sự có ý nghĩa bước ngoặt trong việc đính

chính rằng sau khi nhà xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán ký kết hợp đồng bao thanh

toán thì nhà xuất khẩu phải gửi văn bản thông báo cho nhà nhập khẩu trong đó nêu rõ

việc chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, việc quy định như

thế vẫn chưa nói rõ ai nắm quyền sở hữu khoản phải thu đó. Thậm chí là dễ đi đến hiểu

nhầm đơn vị bao thanh toán chỉ đóng vai trò là “người thu hộ” chứ không có quyền sở

hữu thật sự.



Ngoài ra, việc nhà xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán phải thông báo bằng văn

bản cho nhà nhập khẩu, đồng thời nhà nhập khẩu phải gửi văn bản cho nhà xuất khẩu và

đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết thực hiện

56



thanh toán cho đơn vị bao thanh toán đã tạo nên một ranh giới khiến nhà xuất khẩu dễ bị

phụ thuộc khi phải “nhờ” người mua xác nhận đồng ý bằng văn bản. Mặc dù ở điểm Đ

có quy định nếu nhà nhập khẩu không có văn bản cam kết thanh toán cho đơn vị bao

thanh toán thì việc tiếp tục thực hiện bao thanh toán giữa nhà xuất khẩu và đơn vị bao

thanh toán sẽ do hai bên quyết định và tự chịu trách nhiệm. Đây cũng là một điểm ngăn

cách giữa nhà xuất khẩu và đơn vị thực hiện bao thanh toán khi thực hiện bao thanh

toán xuất-nhập khẩu vì khi đó các đơn vị bao thanh toán của Việt Nam chủ yếu thực

hiện bao thanh toán có truy đòi và phí thực hiện khi đó chắc chắn cũng sẽ cao hơn.

2.2. Thông tin còn chưa minh bạch

Bản thân doanh nghiệp cũng muốn che giấu thông tin

Chúng ta biết rằng bao thanh toán không chỉ được thực hiện với mục đích tài trợ

thương mại mà còn đi sâu vào cả quá trình tiếp theo như quản lí sổ cái bán hàng…

Chính điều này đã tạo ra rào cản ngăn trở đơn vị bao thanh toán tiếp xúc với nhà

xuất khẩu. Bởi vì tâm lý các doanh nghiệp Việt Nam vẫn không muốn công khai hoạt

động sản xuất kinh doanh của mình cũng như không muốn ai can thiệp vào hoạt động

kinh doanh do sợ lộ bí mật kinh doanh hay đơn giản là không muốn công khai doanh

thu của mình. Đây cũng là một điều khó khăn cho các đơn vị bao thanh toán khi tiếp thị

sản phẩm với khách hàng.

Nguồn cung cấp thông tin cho các đơn vị bao thanh toán còn yếu và thiếu

Hiện nay, không chỉ nghiệp vụ bao thanh toán mà hầu hết các nghiệp vụ ngân

hàng khác đều hoạt động trong mội trường thiếu hụt thông tin. Mặc dù nguồn cơ sở

thông tin dữ liệu về khách hàng đã có nhưng vẫn còn thiếu. Tính đến thời điểm hiện tại,

trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà Nước vẫn là đầu mối tập trung

thông tin nhiều nhất phục vụ cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại.

Trong những năm vừa qua, mặc dù đã có những bước phát triển vượt bậc nhưng vì

mang đặc thù là trung tâm dữ liệu thông tin của Ngân hàng Nhà nước nên những nguồn

thông tin mà CIC cung cấp vẫn còn mang nặng tư tưởng “chính trị”.

Hình 10: Khác biệt giữa sự tăng trưởng số liệu với việc cung cấp thông tin của

trung tâm CIC.

(Nguồn: Trích số liệu từ “Tổng quan về CIC” theo www.cicb.vn)

Rõ ràng, sự chênh lệch giữa mức tăng trưởng về kho dữ liệu với mức độ cung cấp

thông tin của CIC đã nói lên phần nào sự hạn chế về số lượng thông tin CIC cung cấp



57



cho thị trường tài chính của nước ta. Đối với hình thức bao thanh toán, sự hạn chế này

sẽ là yếu tố quan trọng ngăn không cho loại hình bao thanh toán quốc tế phát triển.

Thấu hiểu được vấn đề trên mà trong một công bố vào ngày 18 tháng 5 năm 2012,

dự án trung tâm thông tin tín dụng tư nhân đầu tiên sắp đi vào hoạt động.

“…Dự án này được xây dựng từ năm 2007 với sự hỗ trợ, tư vấn của Tổ chức Tài

chính Quốc tế (IFC) - một thành viên của Ngân hàng Thế giới. Được các ngân hàng

BIDV, Vietcombank, Vietinbank, ACB, Techcombank, VIB, DongA Bank, VPBank,

ABBank và SCB góp vốn…”

(Nguồn: http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/thi-truong/2012/05/trung-tam-thong-tintin-dung-tu-nhan-dau-tien-sap-hoat-dong/)



Hy vọng rằng, với những nỗ lực trên thì thị trường thông tin tín dụng của nước ta

sẽ dần minh bạch và dân chủ hơn để tạo đà cho các nghiệp vụ tài chính có thể phát triển

mạnh mẽ hơn, trong đó có loại hình bao thanh toán quốc tế.

2.3. Ngân hàng VIB vẫn chưa xây dựng quy trình bao thanh toán quốc tế

Hiện nay, trong ba ngân hàng mà nhóm nghiên cứu thì duy nhất chỉ có Eximbank

là đã cung cấp dịch vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu, còn lại VIB và Agribank vẫn chỉ

mới dừng lại ở dịch vụ bao thanh toán nội địa.

Điều này chắc chắn sẽ là trở ngại lớn cho ngân hàng vì nếu không có một quy

trình thống nhất thì việc thực hiện cũng như nhận thức về loại hình bao thanh toán quốc

tế của nhân viên ngân hàng đối với từng hợp đồng, ở từng chi nhánh khác nhau sẽ thiếu

tính nhất quán, đồng bộ và không có chuẩn mực để đánh giá.

2.4. Các loại phí liên quan đến loại hình bao thanh toán vẫn khá cao

Chúng ta biết rằng, bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài trợ thương mại và

lợi nhuận của các ngân hàng thu được chính là những khoản phí mà doanh nghiệp phải

trả cho ngân hàng. Tuy nhiên, với một loại hình dịch vụ vẫn còn mang lại nhiều rủi ro

cho ngân hàng, đặc biệt là trong môi trường mà thông tin vẫn còn rất thiếu minh bạch

như vừa trình bày bên trên thì buộc các ngân hàng phải thiết lập những khoản chi phí

cao nhằm hạn chế phần nào rủi ro. Đây cũng là một ranh giới quá lớn ngăn cách loại

hình bao thanh toán đến với các doanh nghiệp.

Ngoài ra, trong biểu phí bao thanh toán của ngân hàng VIB mà nhóm đã trình bày

58



trong bảng ….. thì có nhiều khoản phí VIB không quy định rõ ràng mức tối đa mà chỉ

quy định bằng hai chữ “Thỏa thuận”. Điều này thật sự là kẻ hở để cho các nhân viên

ngân hàng có thể thoải mái đề ra các khoản phí dịch vụ khi doanh nghiệp thực hiện bao

thanh toán nhằm trục lợi cho mình.

Trong tương lai, ngân hàng VIB cần nghiên cứu thay đổi các loại phí dịch vụ của

mình theo mức độ giảm dần theo hướng hợp lí hơn với xu hướng thực tại và đặc biệt

cần nhanh chóng quy định rõ các mức phí tối đa nhằm khuyến khích và tạo thêm động

lực cho các doanh nghiệp có thể thoải mái hơn khi tham gia bao thanh toán.



2.5. Công tác marketing cho dịch vụ bao thanh toán vẫn còn chưa được chú

trọng

Điều này chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trên các banner quảng cáo cũng như

các clip quảng cáo của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam chứ không riêng gì ngân

hàng VIB, chủ yếu vẫn là các thông tin về lãi suất tiền gửi, lãi suất tiết kiệm, vay vốn ưu

đãi, tiết kiệm dự thưởng, khuyến mãi, v.v… Thực trạng trên cho thấy, ngân hàng VIB

vẫn đang quá chú trọng vào hai mảng hoạt động huy động vốn và cho vay trong khâu

giới thiệu sản phẩm dịch vụ mới. Hiện nay, nền kinh tế của nước ta đang trên đà hội

nhập cùng nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi các ngân hàng trong đó có VIB phải có một

chiến lược cụ thể và rõ ràng trong việc định hướng phát triển để có thể cạnh tranh với

các ngân hàng thế giới trong tương lai sắp được thành lập tại nước ta.

Vì lẽ đó, nếu chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh thuần túy mà bỏ qua cơ

hội ở các mảng kinh doanh mới vốn có nhiều tính năng ưu việt như loại hình bao thanh

toán quốc tế thì đó là một khiếm khuyết thật sự cần được mổ xẻ trong nội bộ các ngân

hàng thương mại nước ta. Hy vọng rằng, trong tương lai, ngân hàng VIB sẽ có những

chiến lược marketing đúng đắn hơn để những loại hình dịch vụ mới như bao thanh toán

quốc tế có thể đi vào trong hoạt động của các doanh nghiệp một cách dễ dàng hơn. Và

rõ ràng, một chiến lược marketing tốt sẽ là cơ hội cho ngân hàng VIB thu được những

những khoản lợi nhuận đáng kể khi các doanh nghiệp tham gia loại hình bao thanh toán

quốc tế.

2.6. Hạn chế trong hiểu biết về nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế

Chúng ta đều biết rằng, bao thanh toán là một loại hình dịch vụ mới mẻ. Nó mới

mẻ với cả doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại. Chính vì lẽ đó mà nhận thức về



59



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

×