Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.44 KB, 72 trang )
hàng, tính năng của sản phẩm, trị giá khoản phải thu. Đó chính là mối nguy hại cho
người bán nếu như toàn bộ những thông tin đó bị tiết lộ ra ngoài.
6.1.3. Năng lực thẩm định của đơn vị bao thanh toán
Rủi ro này xảy ra do sự yếu kém trong khâu thẩm định người mua của đơn vị bao
thanh toán dẫn đến gây thiệt hại cho người bán, đặc biệt trong phương thức bao thanh
toán có truy đòi. Đó có thể là do trình độ của cán bộ thẩm định còn yếu kém, thông tin
người mua cung cấp không tin cậy và cũng có thể là do ý thức, trách nhiệm của cán bộ
thẩm định, thậm chí là có những hành vi cố tình thẩm định một cách sơ sài nhằm trục
lợi cho bản thân từ khoản tiền “lót tay” của người mua.
Chúng ta giả sử rằng: người bán rất có thiện chí trong việc cung ứng và giao hàng
đúng hạn như theo cam kết trong hợp đồng nhưng lại gặp phải rủi ro mất khả năng
thanh toán từ phía người mua sẽ khiến người bán đặt dấu hỏi về năng lực thẩm định của
đơn vị bao thanh toán. Và khả năng người bán tìm đến đơn vị bao thanh toán khác có
năng lực thẩm định chuyên nghiệp và tin cậy hơn là điều họ hoàn toàn có thể cân nhắc.
Trên đây chính là những rủi ro mà nhóm nghĩ người bán có thể sẽ gặp phải trong
quá trình sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán. Phần sau nhóm xin trình bày về những rủi
ro của đơn vị đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định bao thanh toán có được
thực hiện hay không _ đơn vị bao thanh toán.
24
6.2. Rủi ro cho đơn vị thực hiện bao thanh toán
Bao thanh toán là một nghiệp vụ mang tính rủi ro cho đơn vị bao thanh toán vì
những lý do sau:
6.2.1. Nguồn thu nợ của đơn vị bao thanh toán khá hạn chế
Chúng ta biết rằng, trong cho vay thông thường, nguồn thu chính của ngân hàng là
thu nhập của người vay, nguồn thu thứ hai là từ tài sản đảm bảo. Nếu như đơn vị bao
thanh toán tiến hành ký kết hợp đồng bao thanh toán miễn truy đòi thì nguồn thu chính
của đơn vị bao thanh toán chính là nguồn thu thứ hai. Khi không thể thu từ nguồn này
thì mọi tổn thất sẽ do đơn vị bao thanh toán gánh chịu.
Trường hợp ký kết hợp đồng bao thanh toán có quyền truy đòi, mặc dù ngân hàng
có quyền truy đòi lại người bán khi người mua không thanh toán hợp đồng nhưng đó
cũng là một vấn đề khó khăn. Vì nếu ngân hàng không thu hồi được nợ từ người mua thì
cũng sẽ gặp khó khăn trong việc truy đòi người bán. Rõ ràng, sự hạn chế trong nguồn
thu nợ là một bài toán quản trị rủi ro rất khó cho đơn vị bao thanh toán.
Do đó, khi thực hiện bao thanh toán đối với người bán thì ngân hàng cũng cần
phải thẩm định người bán về tình hình tài chính, về tình hình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và quan trọng nhất là việc thẩm định các khoản phải thu. Bên cạnh đó,
đơn vị bao thanh toán cũng cần phải có mối quan hệ rộng rãi, khả năng am hiểu thị
trường, có nhiều nguồn thông tin và phải có một đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ.
6.2.2. Rủi ro trong vấn đề gian lận tín dụng
Chúng ta biết rằng, điểm mạnh của loại hình bao thanh toán đối với người bán là
một hình thức tài trợ có thể cung ứng vốn nhanh với những thủ tục nhanh gọn, không
quá khắt khe. Song, với những điều kiện như thế thì việc đơn vị bao thanh toán phải đối
mặt với các đối tượng khách hàng cố tình lừa đảo nhằm trục lợi từ những khoản tiền
ứng trước là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Trong thực tế, người mua và người bán hoàn toàn có khả năng thông đồng với
nhau nhằm làm giả hợp đồng mua bán và lập nên các hóa đơn ảo. Cho nên, nếu đơn vị
bao thanh toán không có những biện pháp kiểm tra chặt chẽ thì rủi ro xảy ra là điều hiển
nhiên.
Ngoài ra, vấn đề cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho công ty “ma” cũng là điều
mà các đơn vị bao thanh toán lưu tâm. Vấn đề gặp phải khách hàng là những công ty có
giấy phép kinh doanh hợp pháp, có con dấu rõ ràng, song lại không có bất cứ một hoạt
động kinh doanh nào hoặc đã ngừng sản xuất kinh doanh nhưng lại cố tình sử dụng
25
những hóa đơn giả để trục lợi từ hợp đồng bao thanh toán là chuyện hoàn toàn có thể
xảy ra.
Hơn nữa, việc phải đối diện với rủi ro khi bên bán chỉ sử dụng một giao dịch muabán nhưng lại đem hồ sơ đến xin tài trợ ở nhiều nơi cũng là điều mà các đơn vị bao
thanh toán phải lưu ý. Khi đó, đơn vị bao thanh toán sẽ bị vướng mắc thủ tục pháp lý
khi không phải là chủ sở hữu duy nhất khoản phải thu này.
Vì thế, khi thương thảo hợp đồng, đơn vị bao thanh toán phải tiến hành thẩm định
một cách kỹ càng cũng như bắt buộc người bán chứng minh được rằng: người bán là
chủ sở hữu hợp pháp, có quyền chuyển nhượng khoản nợ này và chưa chuyển nhượng
khoản nợ này cho một tổ chức hay cá nhân nào khác.
6.2.3. Rủi ro do người mua gây nên
− Do năng lực tài chính
Trong bao thanh toán, trách nhiệm trả nợ thuộc về người mua. Vì thế, rủi ro do
người mua mất khả năng thanh toán chính là rủi ro cao nhất có thể xảy ra thi thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán.
Nếu đơn vị bao thanh toán không đánh giá đúng chất lượng của khoản phải thu thì
việc không thu hồi được nợ và chịu tổn thất là điều hoàn toàn có khả năng (đặc biệt là
trong bao thanh toán miễn truy đòi).
Chính vì thế, đơn vị bao thanh toán cần đặc biệt chú trọng trong khâu thẩm định
uy tín tín dụng của người mua (như thẩm định tình hình tài chính, lịch sử quan hệ tín
dụng, quá trình sản xuất kinh doanh) cũng như chất lượng thu hồi của khoản phải thu
(như thị hiếu của người tiêu dùng về sản phẩm, thị trường đầu ra cho sản phẩm, nhu cầu
của sản phẩm trong tương lai, thời gian thu hồi được nợ, v.v…).
− Do thiếu đạo đức kinh doanh
Đặc biệt, trong phương thức bao thanh toán quốc tế thì một rủi ro rất lớn chính là
từ đạo đức kinh doanh của người mua (nhà nhập khẩu). Bởi những lí do như khác nhau
về vị trí địa lý, luật pháp, tập quán kinh doanh mà việc tiếp cận cũng như thẩm định nhà
nhập khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Khi đó, nếu nhà nhập khẩu có những hành vi như cố
tình lừa đảo, chiếm đoạt hàng mua bất hợp pháp, trốn tránh hoặc trì hoãn nghĩa vụ trả
nợ cũng là một rào cản rất lớn cho sự phát triển của loại hình bao thanh toán quốc tế so
với loại hình bao thanh toán trong nước.
Chính vì thế, các đơn vị bao thanh toán thường nhờ đến đơn vị đại lý ở nước của
nhà nhập khẩu nhằm hỗ trợ trong việc đánh giá tín dụng cũng như tiếp cận với nhà nhập
26
khẩu. Cho nên, việc mở rộng mối quan hệ với các đơn vị đại lý ở nước ngoài nhằm
giảm thiểu rủi ro khi tiến hành hoạt động bao thanh toán quốc tế là điều mà các đơn vị
bao thanh toán nhất thiết phải chú trọng.
Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu, nhóm nhận thấy rằng với tính năng là
một công cụ tài trợ cho người bán trong hoạt động thương mại, bao thanh toán đa
đem lại cho người bán, cũng như đơn vị bao thanh toán những lợi ích nhất định
nhưng cũng mang theo nhiều rủi ro.
Phần tiếp theo nhóm sẽ trình bày thực trạng hoạt động bao thanh toán tại ngân
hàng VIB và một số ngân hàng thương mại khác để nắm rõ hơn những vấn đề quy trình
thực hiện, biểu phí bao thanh toán cũng như những kết quả mà ngân hàng thu được từ
hoạt động bao thanh toán.
27
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN DIỄN
RA TẠI VIB VÀ MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI KHÁC
Sau quá trình nghiên cứu, thu thập thông tin cũng như được sự hướng dẫn của
thầy Nguyễn Thanh Nam, nhóm đã quyết định chọn thêm hai ngân hàng là Ngân Hàng
Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam (Agribank) và Ngân Hàng Xuất
Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank) để làm công cụ so sánh về hoạt động bao thanh toán
với Ngân Hàng Quốc Tế (VIB) minh họa cho phần này.
Sở dĩ, nhóm chọn hai ngân hàng này làm công cụ để so sánh với ngân hàng VIB
bởi trong suốt quá trình thu thập thông tin thực tế cũng như tìm kiếm các dữ liệu trên
Internet, nhóm đã tìm được những số liệu cần thiết cho việc so sánh với ngân hàng VIB
về tình hình doanh thu, quy trình thực hiện cũng như biểu phí bao thanh toán để làm cơ
sở cho việc so sánh.
Trước tiên, nhóm xin giới thiệu về tình hình hoạt động bao thanh toán của ba ngân
hàng trên.
28
1. Tình hình bao thanh toán tại tại VIB và một số ngân hàng thương mại khác
1.1. Về bao thanh toán nội địa
Đối với ngân hàng VIB
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới như hiện nay, để đáp ứng được nhu
cầu cạnh tranh cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp thì Ngân hàng VIB đã là một trong
những ngân hàng tiên phong trong việc cung cấp dịch vụ bao thanh toán nội địa . Không
dừng lại ở đó, VIB tiếp tục tăng cường những tính năng và tiện ích mới cho dịch vụ Bao
thanh toán nội địa nhằm mang đến giải pháp tài chính tốt nhất cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Đặc điểm nổi bật của dịch vụ bao thanh toán nội địa mà VIB cung cấp là không
cần có tài sản đảm bảo khi bên mua hàng có thể đáp ứng được các điều kiện theo quy
định của VIB. Điều này cũng chính là tính hấp dẫn của dịch vụ bao thanh toán do VIB
cung cấp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) thường gặp vấn đề khó khăn
về tài sản đảm bảo.
“...Sau hơn 5 năm triển khai và cung cấp dịch vụ bao thanh toán nội địa cho các
doanh nghiệp, VIB đã cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho hơn 300 doanh nghiệp và
đã đáp ứng nhu cầu về vốn với giá trị hơn hai nghìn tỷ đồng…”
(Nguồn: Trích “Báo cáo thường niên năm 2010 của ngân hàng VIB”).
Đối với ngân hàng Eximbank
Nhận thức được sự tiện ích mang lại từ hoạt động bao thanh toán, ngân hàng
Eximbank đã chính thức triển khai dịch vụ bao thanh toán nội địa nhằm tạo điều kiện
cho doanh nghiệp đang cần vốn, hạn chế rủi ro, giảm chi phí quản lý...
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai dịch vụ bao thanh toán, ngân hàng Eximbank
đã yêu cầu các khách hàng phải cung cấp tài sản đảm bảo cho việc thực hiện giao dịch
của mình. Chính điều này đã phần nào hạn chế số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ
bao thanh toán nội địa của Eximbank so với VIB. (xem Hình 1: Lợi nhuận hoạt động
bao thanh toán nội địa của VIB và một số ngân hàng khác).
Đối với ngân hàng Agribank
Xuất hiện vào khoảng đầu năm 2006 nhưng tốc độ tăng trưởng doanh thu bao
thanh toán nội địa của Agribank là thấp nhất so với hai ngân hàng VIB và Eximbank.
29
Điều này là do những quy định khá khắt khe về việc áp dụng tài sản đảm bảo cho loại
hình này. Agribank yêu cầu khách hàng phải thực hiện một trong các hình thức bảo đảm
cho hoạt động bao thanh toán nội địa như: ký quỹ, cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba, v.v…
Ngoài ra, khi khách hàng muốn sử dụng dịch vụ bao thanh toán nội địa thì phải
thỏa mãn các yêu cầu về uy tín tín dụng của Agribank như: “…có tín nhiệm được xếp
loại A theo quy định của Agribank hoặc có lãi 02 năm liền kề (đối với quan hệ lần đầu)
…”
(Nguồn: Trích “Điều kiện bao thanh toán của ngân hàng Agribank”
http://agribankanphu.com.vn/vn/business/details/dich-vu-bao-thanh-toan-11.html).
Rõ ràng, việc quy định như vậy thật sự là rào cản quá lớn cho các doanh nghiệp
khi tiếp cận với loại hình dịch vụ bao thanh toán nội địa tại Agribank. Mặc dù vậy,
Agribank lại là đơn vị duy nhất trong ba ngân hàng nhóm chọn để phân tích cung cấp cả
hai phương thức bao thanh toán là có truy đòi và miễn truy đòi. Chính điểm tích cực này
đã giúp cho lợi nhuận từ hoạt động bao thanh toán nội địa của Agribank mặc dù là thấp
nhất so với VIB và Eximbank nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của
mình (xem Hình 1: Lợi nhuận hoạt động bao thanh toán nội địa của VIB và một số
ngân hàng khác).
Đánh giá chung về hoạt động bao thanh toán nội địa
Để có cái nhìn cụ thể về lợi nhuận kiếm được cũng như tốc độ tăng trưởng lợi
nhuận thu về từ hoạt động bao thanh toán nội địa của ba ngân hàng, chúng ta hãy xem
xét biểu đồ sau:
30