Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.44 KB, 72 trang )
Rõ ràng, qua bảng trên chúng ta có thể thấy được rằng không nhiều sự chênh lệch
thật sự lớn ở phân khúc thị phần lợi nhuận hoạt động bao thanh toán của các ngân hàng
thương mại. Điều này nói lên hoạt động bao thanh toán của các ngân hàng vẫn còn khá
mới mẻ và thực tế trong chiến lược kinh doanh cụ thể của mình được đề cập trong báo
cáo thường niên, các ngân hàng trên cũng chưa xây dựng cho mình một chiến lược dài
hơi để phát triển loại hình dịch vụ bao thanh toán trong những năm sắp tới.
Đây chính là một trong những lí do vì sao loại hình bao thanh toán của nước ta
mặc dù đã được triển khai từ năm 2004 nhưng vẫn phát triển không tương xứng với
tiềm lực vốn có.
Ngoài ra, cũng cần nhấn mạnh rằng trong số các ngân hàng có lợi nhuận thu về từ
hoạt động bao thanh toán thì VIB chính là đơn vị thu được lợi nhuận cao thứ hai (chỉ
xếp sau ngân hàng ngoại thương). Điều này thật sự là một lợi thế cho VIB trong việc
thu hút hơn nữa số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng bao thanh toán bởi
những lợi ích mà VIB mang lại cho doanh nghiệp ở những phần trên mà nhóm vừa trình
bày.
Bên cạnh đó, số lượng các đơn vị thực hiện bao thanh toán của nước ta trực thuộc
tổ chức tổ chức bao thanh toán quốc tế Factors Chain International (gọi tắt là FCI) cũng
giải thích phần nào về doanh số thực hiện còn rất khiêm tốn của loại hình dịch vụ bao
thanh toán.
Bảng 9: Doanh số hoạt động bao thanh toán của các thành viên thuộc FCI của
nước ta năm 2011.
Đơn vị tính: triệu EUR
Số lượng
thành viên
thuộc FCI
Doanh số bao
thanh toán nội
địa
Doanh số bao
thanh toán
quốc tế
Tổng cộng
…
…
…
…
Việt Nam
42
25
67
…
7
Quốc gia
thành viên
…
…
…
(Nguồn: Trích “Doanh thu hoạt động bao thanh toán của các nước năm 2011”
http://www.fci.nl/images/public_2011_fci_factoring_statistics_new.pdf).
43
Rõ ràng, với vỏn vẹn chỉ có 7 thành viên thuộc tổ chức bao thanh toán quốc tế
Factors Chain International (gọi tắt là FCI) thì số lượng đơn vị bao thanh toán của nước
ta có cơ hội tham gia các diễn đàn do FCI tổ chức cũng như học tập thêm kinh nghiệm
từ các thành viên khác trong FCI có thế mạnh trong khâu cung cấp dịch vụ bao thanh
toán cũng rất hạn chế. Đó là lí do vì sao nhóm cho rằng con số 67 triệu EUR thật sự vẫn
chưa nói hết được tiềm năng phát triển của loại hình tài trợ thương mại này. Trong
tương lai, với xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới thì số lượng các đơn vị bao thanh
toán trở thành là thành viên của FCI chắc chắn sẽ tăng lên bởi không ai muốn tự loại
mình ra khỏi sự phát triển của nền kinh tế hiện đại vốn phát triển rất nhanh như ngày
nay.
Không những thế, sự chênh lệch về doanh số bao thanh toán nội địa so với bao
thanh toán quốc tế (xấp xỉ gần 50%) cũng đã nói lên phần nào về tiềm năng phát triển
cho loại hình bao thanh toán quốc tế của nước ta trong tương lai. Đây cũng chính là một
trong những lý do vì sao ở những phần tiếp theo nhóm sẽ đưa ra nhưng giải pháp để
phát triển loại hình bao thanh toán này.
Ngoài ra, cũng cần đánh giá thêm rằng, kể từ khi bao thanh toán được chính thức
đi vào hoạt động ở nước ta thì nền kinh tế đã chứng kiến được sự tăng trưởng mạnh mẽ
về doanh thu mà hoạt động bao thanh toán đóng góp vào GDP của cả nước.
Hình 4: Biểu đồ doanh số tăng trưởng hoạt động bao thanh toán của nước ta trong
7 năm qua.
(Nguồn: Trích “Tổng doanh thu hoạt động bao thanh toán các nước trong bảy năm
qua”
http://www.fci.nl/images/public_2011_fci_factoring_statistics_new.pdf).
Dựa vào biểu đồ trên, ta có thể dễ dàng nhận ra sự tăng trưởng rất đáng chú ý của
doanh số thị trường bao thanh toán mang lại. Nếu như trong giai đoạn từ năm 20042005, khi mà bao thanh toán chỉ mới được đưa vào sử dụng với doanh thu đạt được rất
ít ỏi là ở mức 2 triệu EUR thì từ năm 2007-2009 đã chứng kiện sự chuyển mình mạnh
mẽ của hoạt động bao thanh toán. Mặc dù doanh thu năm 2010 sụt giảm khá nhiều so
với năm 2009 do nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu
thì ngay sau đó, năm 2011 doanh thu bao thanh toán đã nhích nhẹ lên 67 triệu EUR do
hoạt động của nền kinh tế dần khắc phục được những khó khăn nội tại.
44
Trong năm 2012 và những năm sắp tới, với chiến lược phát triển thành một nước
cơ bản có nền kinh tế công nghiệp hóa thì khả năng loại hình bao thanh toán vẫn còn
phát triển mạnh là hoàn toàn có khả năng.
Phần tiếp theo, nhóm xin đưa ra một số so sánh về thực trạng bao thanh toán của
nước ta với một số nước khác trên thế giới nhằm làm rõ vị thế của nước ta đối với loại
hình dịch vụ còn rất mới mẻ này.
2. So sánh hoạt động bao thanh toán của nước ta với các nước trên thế giới
Hoạt động bao thanh toán ở nước ta chỉ mới được thực hiện kể từ khi Ngân hàng
Nhà Nước ban hành “Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng” vào
năm 2004. Đó là lý do vì sao tỷ trọng doanh thu hoạt động bao thanh toán của nước ta
đóng góp vào tổng doanh thu của khu vực Châu Á còn rất hạn chế.
Bảng 10: Tỷ trọng doanh số bao thanh toán của nước ta so với Châu Á.
Đơn vị: Triệu EUR
Việt Nam
Châu Á
2005
2
135.470
2006
16
149.606
2007
43
174.244
2008
85
235.418
2009
95
209.991
2010
65
355.602
2011
67
508.888
(Nguồn: Trích “Tổng doanh thu hoạt động bao thanh toán các nước trong bảy năm
qua”
http://www.fci.nl/images/public_2011_fci_factoring_statistics_new.pdf).
45
Rõ ràng, doanh thu thu được từ hoạt động bao thanh toán của nước ta so với khu
vực Châu Á còn rất ít ỏi mặc dù nền kinh tế nước ta trong những năm qua được nhận
xét là có tốc độ tăng trưởng đáng kể so với các nước trong khu vực. Có lẽ vì việc chỉ
mới ra đời quy chế thực hiên bao thanh toán vào năm 2004 cũng là phần nào nguyên
nhân dẫn đến tình trạng bao thanh toán của nước ta còn chưa phổ biến dẫn đến doanh
thu thu được từ hoạt động này so với các nước trong khu vực còn ít.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét sự chênh lệch về doanh thu hoạt động bao thanh
toán của nước ta với một số nước trong khu vực Đông Nam Á.
Hình 5: Chênh lệch về doanh thu hoạt động bao thanh toán của nước ta với một số
nước trong khu vực Đông Nam Á.
(Nguồn: Trích “Tổng doanh thu hoạt động bao thanh toán các nước trong bảy năm qua”
http://www.fci.nl/images/public_2011_fci_factoring_statistics_new.pdf).
46