Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.08 KB, 155 trang )
hình thành các hiệp hội chuyên ngành, mở rộng hợp tác trong cộng đồng và với
trong nước theo tinh thần "ích nước lợi nhà". Chính phủ có những biện pháp
đồng bộ và có hiệu quả nhằm giảm sự mất cân đối trong đầu tư ở các làng nghề,
vùng lãnh thổ, gia tăng đầu cơ trên thị trường bất động sản và sự bất ổn trên thị
trường vốn, hạn chế lạm dụng những ưu đãi về thuế, đất đai.
Hai là, tích cực hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định
và phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc thông qua việc mở rộng các hoạt động giao
lưu nhiều mặt giữa cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tiếp tục tổ
chức các trại hè, mở các lớp tiếng Việt cho thanh thiếu niên kiều bào, hỗ trợ xây
dựng trường học, cung cấp sách giáo khoa. Khuyến khích cộng đồng phát huy
vai trò cầu nối hữu nghị và quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Ba là, đáp ứng những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của kiều bào như
xem xét vấn đề thị thực xuất nhập cảnh, mở rộng đối tượng bảo lãnh hồi hương,
rút ngắn thời gian giải quyết thôi quốc tịch và xem xét khả năng cho phép kiều
bào có hai quốc tịch... giải quyết tốt các vấn đề tâm linh, nhân đạo. Chính phủ
cần có chính sách thông thoáng hơn nữa cho Việt Kiều được mua nhà, mua đất,
giới hạn về tỷ lệ góp vốn vào các công ty cổ phần, đa dạng hóa các hình thức đầu
tư và cải cách thủ tục hành chính để thu hút mạnh nguồn kiều hối.
Bốn là, nguồn kiều hối thể hiện tình cảm sâu nặng của bà con Việt kiều
đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài đối với thân nhân và quê hương, đất nước.
Chính vì lẽ đó, chính sách của Đảng và Nhà nước cởi mở thông thoáng, khuyến
khích và tạo điều kiện cho kiều bào ở nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình; đảm
bảo an toàn cho số tiền này; người thân được nhận bằng ngoại tệ không hạn chế,
tạo điều kiện cho đồng tiền kiều hối có khả năng sinh sôi nảy nở, làm ra thêm
nhiều của cải cho đất nước. Khi đó, sẽ không chỉ nâng cao hiệu quả của kiều hối
mà còn tạo động lực thu hút mạnh hơn đối với dòng ngoại tệ về đất nước.
129
Năm là, tiếp tục củng cố tổ chức và nhân sự của Ủy ban về người Việt
Nam ở nước ngoài theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả: tăng cường biên chế
làm công tác cộng đồng ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi có
đông người Việt sinh sống; tăng cường chi phí, cải thiện cơ sở vật chất, điều kiện
làm việc để đáp ứng yêu cầu ngày càng gia tăng của công tác vận động cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo cơ chế phối hợp công tác giữa Ủy ban
và các địa phương, các bộ, ngành, giữa trong nước và ngoài nước.
Bài học kinh nghiệm thứ hai, về sử dụng kiều hối của Trung Quốc để phát
triển sản xuất thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không đủ
điều kiện để vay vốn ở các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng thông qua các quỹ
gọi là TVEs (township and village enterprises). Thu hút nguồn kiều hối về nước
ngày một nhiều hơn là quan trọng, nhưng việc quản lý và sử dụng nguồn tiền này
như thế nào nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực là một trọng trách có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn. Việt Nam nói riêng
và các nước đang phát triển nói chung là những quốc gia nghèo, vì vậy nguồn tài
chính như kiều hối nhằm hỗ trợ cho xóa đói giảm nghèo, đầu tư phát triển sản sản
xuất là vô cùng quan trọng. Mô hình quỹ TVEs là một mô hình rất hay và hiệu
quả mà Việt Nam cần tham khảo và học hỏi. Quỹ TVEs là một cách hiệu quả để
sử dụng kiều hối cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao mức sống
của người dân, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nếu những quỹ này được
thành lập và phát triển ở Việt Nam sẽ là một nguồn lực hỗ trợ cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển hoạt động kinh doanh sản xuất của mình qua đó có
thể tạo ra nhiều hàng hóa cho xã hội đồng thời tạo công ăn việc làm cho xã hội.
Với những quỹ này thì nguồn kiều hối sẽ được sử dụng trực tiếp để tạo ra tổng sản
phẩm quốc dân cho đất nước thay vì đầu tư vào vàng, ngoại tệ, hay bất động sản,
những lĩnh vực đầu tư không thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngoài ra, những quỹ này
130
hoạt động có hiệu quả sẽ có tác dụng thu hút thêm kiều hối cho đất nước vì những
người Việt Nam ở nước ngoài không chỉ thấy được đây là một kênh đầu tư hiệu
quả mà còn giupos cho những người xa Tổ quốc thấy tự hào rằng họ đã góp một
phần nhỏ bé vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước.
Bài học kinh nghiệm thứ ba, về thu hút người tài ở nước ngoài về nước
của chính phủ Trung Quốc. Người định cư ở nước ngoài gửi kiều hối về nước
được chia làm hai nhóm đối tượng: một là những người định cư dài hạn ở nước
ngoài có tiềm lực mạnh về kinh tế, có tri thức, có tài và hai là những người xuất
khẩu lao động thuần túy. Với hai đối tượng này thì tiềm lực kiều hối cho phát triển
kinh tế xã hội của đất nước thực sự phải xuất phát từ nhóm đối tượng thứ nhất. Vì
vậy những chính sách thu hút người tài của Trung Quốc là những bài học đáng
quý cho chính sách kiều hối của Việt Nam. Để thu hút người tài ở nước ngoài đầu
tư về quê hương nhằm cải thiện đời sống quê nhà và phát triển kinh tế xã hội, một
số biện pháp như:
Một là, Nhà nước cần có chính sách thông thoáng và rộng rãi hơn nữa,
mạng lưới thông tin minh bạch rõ ràng hơn để nhiều doanh nhân là kiều bào từ
các nước trên thế giới đầu tư về quê hương. Ngoại trừ các thành phố lớn, hiện tại
không ít các địa phương vẫn còn có quan niệm dự án kiều bào là vốn đầu tư
nước ngoài, thậm chí doanh nhân đứng tên dự án vẫn còn mang quốc tịch Việt
Nam. Điều này hiển nhiên gây khó khăn cho doanh nghiệp về nhiều mặt như thủ
tục, thuế, và các cách đối đãi không công bằng. Hơn nữa hạ tầng cơ sở cho các
hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước và hạ tầng về chính sách, quy định,
đặc biệt là về các ưu đãi cụ thể dành cho trí thức cần được quan tâm sâu sắc.
Hai là, kêu gọi kiều bào tham gia đầu tư vào các dự án lớn tại Việt Nam
như Bãi biển Rồng tại Quảng Nam (4,15 tỷ USD), dự án khu du lịch và giải trí
Vinpearl Land (Đảo Hòn tre - Nha Trang), dự án Thành phố Sáng tạo tại Phú
131
Yên, dự án khu dân trí đa năng Saigon Atlantic do tập đoàn Winvest LLC của
Hoa Kỳ đầu tư đã trở thành dự án có quy mô lớn nhất...
Ba là, hình thành thêm những tổ chức làm cầu nối thích hợp cho kiều bào
về nước, giống như Trung tâm hỗ trợ Kiều bào của Thành phố Hồ Chí Minh với
chức năng hỗ trợ kiều bào và thủ tục pháp lý cũng như trao đổi thông tin về
những vấn đề trong nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào đầu tư về quê
hương nhiều hơn, một nhu cầu đang đặt ra là việc nghiên cứu và xây dựng một
diễn đàn có tính chất thường niên về tư vấn chính sách cho Chính phủ đối với
một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế - xã hội có sự tham gia của tri thức
kiều bào, chủ trì sẽ là một thành viên của Chính phủ chịu trách nhiệm đối với
phạm vi cần tư vấn.
Bài học kinh nghiệm thứ tư, về chính sách khuyến khích xuất khẩu lao
động của Philipines. Những lao động xuất khẩu ra nước ngoài gửi tiền về nước là
một trong những kênh kiều hối quan trọng, vì vậy để tăng cường nguồn kiều hối
cho đất nước, một trong những chính sách kiều hối quan trọng là thúc đẩy lao
động xuất khẩu ra nước ngoài, một mặt giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nghề
theo hướng chuyên sâu, học hỏi nền văn minh các nước phát triển, một mặt gửi
tiền về cho người thân giúp cải thiện đời sống quê nhà, góp phần công cuộc xóa
đói giảm nghèo. Từ bài học kinh nghiệm về chính sách khuyến khích xuất khẩu
lao động của Philipines, Chính phủ Việt Nam có nhiều biện pháp nhằm khuyến
khích xuất khẩu lao động ra nước ngoài có hiệu quả đối với phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam:
Một là, tăng cường giám sát cơ quan xuất khẩu lao động để đảm bảo quyền
lợi chính đáng cho người xuất khẩu lao động như quy định về lệ phí tuyển dụng
không được quá cao, kiểm soát chặt chẽ tránh các hợp đồng giả, điều này được
thực hiện thông qua Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao xử
132
lý những hợp đồng lao động nước ngoài trước khi tiến hành nhập cư lao động.
Thông qua các quốc gia lãnh sự và đại sư quán ở nước ngoài, chính phủ có thể
theo dõi hoạt động của người lao động ở nước ngoài, đồng thời cung cấp các dịch
vụ để giải quyết về hợp đồng sai lầm và tranh chấp lao động, thiết lập một mạng
lưới với luật sự để giúp họ trong bất kỳ những vụ tranh chấp pháp lý xảy ra.
Hai là, bảo vệ công dân di cư thông qua một quỹ phúc lợi nhập cư có thể
cung cấp các dịch vụ bao gồm cả quyền hồi hương khẩn cấp trong trường hợp
khủng hoảng quốc gia, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, trợ giúp phúc lợi, chuẩn bị tái
hòa hợp và hồi hương của công dân di cư trong trường hợp chết khi đang lao
động ở nước ngoài. Tích cực hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn
định và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc mở rộng các
hoạt động giao lưu nhiều mặt giữa cộng đồng người lao động Việt Nam ở nước
ngoài, tổ chức các trại hè, mở các lớp tiếng Việt cho các thanh thiếu niên kiều bào,
hỗ trợ xây dựng trường học, khuyến khích cộng đồng phát huy vai trò cầu nối hữu
nghị và quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế, tạo hình ảnh đẹp cho lao
động Việt Nam làm việc tại nước ngoài.
Ba là, xúc tiến mở các chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài nơi có nhiều
người Việt Nam lao động, học tập và bà con Việt kiều sinh sống làm ăn. Thúc đẩy
cạnh tranh trong ngành dịch vụ chuyển tiền nước ngoài ở các ngân hàng nhằm tạo
ra chi phí chuyển tiền thấp hơn. Các ngân hàng cần minh bạch đăng tải tất cả các
chi phí liên quan đến một giao dịch chuyển kiều hối cụ thể, qua đó bảo vệ quyền
lợi chính đáng của người chuyển tiền và người nhận tiền.
3.4 Một số kiến nghị về chính sách kiều hối của Việt Nam
Từ những phân tích về thực trạng kiều hối của Việt Nam trong những năm
qua cũng như vai trò và ảnh hưởng tiêu cực của kiều hối đến phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam trong phần trên, tác giả mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị
133
nhằm phát huy tác động tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực của kiều hối đến
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam sau:
Một là, xuất phát từ thực tế còn vướng mắc một số vấn đề trong chính
sách khuyến khích kiều hối của Việt Nam trong thời gian qua như: quá trình
hoàn thuế VAT còn chậm, các thủ tục hành chính còn chậm và rườm rà làm mất
thời gian của doanh nghiệp; thời gian chờ cấp giấy phép kinh doanh còn quá
lâu… đề xuất thứ nhất là thúc đẩy nhanh quá trình hoàn thuế VAT; các cơ quan
ban ngành cần hướng dẫn rõ các thủ tục hành chính cho bà con; rút ngắn thời
gian đăng ký cấp phép kinh doanh, cho thời hạn bằng lái xe đối với kiều bào lâu
hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư lâu dài; các chính sách phải được cụ
thể hóa theo từng địa phương.
Hai là, về quốc tịch: thực tế có nhiều người Việt Nam ở nước ngoài gia
nhập quốc tịch nước sở tại những vẫn chưa bỏ hẳn quốc tịch Việt Nam. Trong
trường hợp người Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam mang hộ chiếu nước
ngoài thì mặc nhiên được coi là người nước ngoài. Việc xin thị thực nhập cảnh
Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chưa hoàn toàn thuận lợi,
nếu Việt kiều thông qua đại lý làm dịch vụ thì nhanh nhưng lệ phí lại rất cao.
Quy định người bảo lãnh cho những công dân Việt Nam hồi hương phải là “thân
nhân ruột thịt” (theo quyết định 875/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, điều
này gây khó khăn hơn đối với những người muốn hồi hương mà không còn
người thân ruột thịt. Vì vậy Nhà nước cần tạo dựng chính sách hợp tình hợp lý
cần thiết để tất cả người Việt Nam dù ở bất kỳ quốc gia nào, với quốc tịch thứ
hai nào cũng nhận thấy mình là người Việt Nam với đầy đủ nghĩa vụ và quyền
lợi của một công dân Việt Nam, bình đẳng với mọi công dân khác không phân
biệt đối xử, điều này càng khuyến khích những người định cư ở nước ngoài lòng
yêu nước và mong muốn đầu tư đóng góp xây dựng đất nước.
134