Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.08 KB, 155 trang )
Năm là, Ngân hàng Nhà nước cần có những nghiên cứu chi tiết hơn
để có căn cứ cho việc thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất và các chính sách
khuyến khích đầu tư phù hợp trên cơ sở có thể định hướng cho việc khai
thác và sử dụng kiều hối có hiệu quả hơn.
Sáu là, Cần có biện pháp đảm bảo cho lãi suất tiền gửi nội tệ đủ
sức hấp dẫn, khuyến khích người nhận kiều hối chuyển sang nội tệ gửi vào
NHTM.
Bảy là, chú trọng mở rộng các kênh chuyển tiền, cải tiến công
nghệ.
Tám là, các giải pháp kiềm chế lạm pháp phải được thực hiện đồng
bộ, ổn định giá trị đồng Việt Nam, tạo lòng tin bền vững của người dân Việt
Nam vào đồng nội tệ.
Chín là, cần tiếp tục có chính sách mở rộng cho vay vốn tạo điều
kiện cho lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động nước ngoài và khuyến
khích mọi thành phần kinh tế mở rộng thị trường xuất khẩu, địa bàn hoạt
động kinh doanh ở cả trong và ngoài nước.
Mười là, vấn đề về kiều hối và hoạt động rửa tiền ở Việt Nam. Cần
phải có những biện pháp thiết thực để vừa khuyến khích kiều bào gửi tiền
về xây dựng đất nước vừa ngăn chặn được tội phạm rửa tiền thông qua con
đường này.
KẾT LUẬN
Với kết cấu 3 chương, luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
của kiều hối và chính sách kiều hối. Từ sự phân tích bản chất của dòng tiền
kiều hối là do những người định cư ở nước ngoài chuyển tiền bằng đồng
ngoại tệ về nước với mục đích cải thiện cuộc sống nơi quê nhà và góp phần
xây dựng đất nước, luận án đã trình bày những nội dung cơ bản của chính
25
sách kiều hối, từ đó phân tích những chính sách nhằm thu hút, quản lý và sử
dụng có hiệu quả nguồn kiều hối của các nước đang phát triển nói
chung.Với những nội dung phân tích ở chương 2 của luận án đã cho chúng
ta có cái nhìn tổng quan về kiều hối và chính sách kiều hối của một số nước
Châu Á với ba quốc gia điển hình về thu hút kiều hối là Ấn Độ, Trung Quốc
và Philippines. Mỗi quốc gia đều có những chính sách đặc trưng nhằm thu
hút có hiệu quả nguồn kiều hối, phát huy vai trò tích cực của nguồn kiều hối
đến phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách nổi bật của Ấn Độ về
kiều hối là chính sách thu hút kiều bào về nước thông qua việc phát hành
phát hành kiến thiết Ấn Độ chỉ dành cho Ấn kiều. Ở Trung Quốc, điểm nổi
bật về chính sách thu hút kiều hối là thông qua việc thu hút người tài ở nước
ngoài về nước của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc áp dụng chế độ thẻ
xanh dành cho những người tài nước ngoài sẽ được mời nhập cư vĩnh viễn,
xuất nhập cảnh và được tạm trú với hộ chiếu có sẵn mà không cần visa.
Thông qua hình thức này, kêu gọi lòng yêu nước của người di cư ra nước
ngoài có nguyện vọng muốn đầu tư xây dựng đất nước. Chính phủ Trung
Quốc đã thành công trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối nhằm
mục đích phát triển kinh tễ xã hội của đất nước thông qua biện pháp sử
dụng kiều hối để phát triển sản xuất, hỗ trợ các doanh nghiệp ở quy mô nhỏ
không đủ điều kiện để vay vốn ở các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng
thông qua các quỹ gọi tắt là TVEs (township and village enterprises). Mô
hình này là bài học kinh nghiệm mà các quốc gia thu nhận kiều hối nói
chung và Việt Nam nói riêng cần tham khảo và học hỏi. Điểm nổi bật về
chính sách thu hút kiều hối của Philippines là sự chuyên nghiệp hóa chính
sách xuất khẩu lao động, biến lĩnh vực này trở thành ngành công nghiệp
mới, tạo ra những người lao động chuyên nghiệp, có chuyên môn tốt, trình
26
độ học vấn cao và lao động chăm chỉ siêng năng. Qua đó thúc đẩy những
lao động ở nước ngoài vừa nâng cao trình độ vừa có điều kiện gửi tiền về
nước nhiều hơn.
Từ những bài học kinh nghiệm quý báu đó, Việt Nam đã học hỏi những
gì trong việc hoạch định chính sách kiều hối cho phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Chương 3 của luận án đã phân tích thực trạng dòng kiều hối
của Việt Nam, những tác động tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của kiều hối
đến nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời luận án phân tích sự vận dụng những
bài học kinh nghiệm của ba quốc gia Ấn Độ, Trung Quốc và Philippines
trong việc hoạch định và thực thi chính sách kiều hối tại Việt Nam.
27