Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.94 KB, 95 trang )
30
Trong khi tài chính phụ thuộc vào năng lực hay chính sách của công ty xây
dựng thì quản lý chi phí là công việc của những người có chuyên môn tại công
trường. Việc quản lý chi phí tại công trường làm ảnh hưởng rất lớn đến việc thực
hiện bản KHTĐTC. Cụ thể là nếu không quản lý tốt chi phí có thể xảy ra tình trạng
cấp phát vượt quá khối lượng đã hoàn thành gây khó khăn cho công việc khác, kéo
dài thời gian thực hiện của công việc khác làm ảnh hưởng đến KHTĐTC chung.
Hoặc xác định khối lượng phát sinh không đúng, không phù hợp thực tế làm tăng
chi phí ảnh hưởng đến việc cấp phát thanh toán công việc khác như: thiếu tiền thuê
máy móc, mua vật tư… gây chậm tiến độ của việc đó. Hay việc cấp phát không theo
kế hoạch tài chính dẫn đến tình trạng công việc chưa làm nhưng đã chi trả tiền làm
rối loạn kế hoạch tài chính hoặc phá vỡ kế hoạch tài chính ảnh hưởng đến kế hoạch
thi công.
Trong lĩnh vực xây dựng thì quá trình kiểm soát hay quản lý chi phí phải
được giao cho các kỹ sư xây dựng. Đó là những người hiểu được chính xác giá trị
công việc và có thể lý giải chi tiết chúng theo các điều khoản hợp đồng. Những
người làm kế toán cũng cần có ở công trường, họ sẽ chịu trách nhiệm về việc ghi
chép sổ sách kế toán và thực hiện các thủ tục chi trả tiền. Tuy nhiên những dữ liệu
kế toán ghi chép được thường ít dùng trong quá trình kiểm soát chi phí xây dựng, vì
chúng được thu thập quá muộn để có thể kiểm soát hiệu quả chi phí phải trả.
Mục đích của quản lý chi phí trong xây dựng công trình là đề xuất những giải
pháp tức thì cho các công việc trong hợp đồng để làm tăng tính kinh tế của nhà
thầu. Nếu một công việc hay quá trình thi công mà không hiệu quả thì những cảnh
báo nhanh phải được thông báo đến nhóm thực hiện dự án để có những biện pháp
giải quyết những trục trặc đó. Thường thì không có những dữ liệu lưu giữ lại khi kết
thúc dự án. Do vậy, rất khó có thể chứng minh được một công việc nào đó có được
thực hiện hiệu quả không dựa trên chi phí của nó. Do vậy, để thiết lập được công cụ
quản lý hiệu quả trong những giai đoạn thi công ngắn hạn thì hệ thống kiểm soát chi
phí cần kiểm soát thu chi các nguồn tài chính. Ngoài ra, mối liên hệ giữa giá trị
công việc hoàn thành hay không và chi phí chung của nhà thầu phải được đánh giá
31
thường xuyên. Những mục đích khác nhau của hai lĩnh vực kiểm soát này nhằm
giúp ban quản lý dự án đưa ra các cảnh báo hàng ngày về tình hình tài chính và chi
phí công trường tới ban giám đốc công ty.
Điều thứ ba cần chú ý tới là hệ thống kiểm soát chi phí cần cung cấp dữ liệu
để định giá các thay đổi xuất hiện trong quá trình thi công. Hay một hợp đồng xây
dựng thì giá đơn vị thường phải ứng theo các điều kiện thi công khác nhau. Nếu có
thể thay đổi được các bản ghi chính xác về chi phí thì nhà thầu sẽ dễ dàng thiết lập
được các đơn giá mới cho các phần việc phát sinh. Khi đánh giá các hoạt động của
nhà thầu không hiệu quả và có năng suất thấp, việc tính toán đơn giá theo cách này
giúp nhà thầu đảm bảo được mức giá có thể chấp nhận khi thương thuyết với chủ
đầu tư.
Kiểm soát chi phí cho các hoạt động xây dựng thường chỉ giới hạn cho
những chi phí nhân công và máy móc thiết bị. Nguyên nhân, do đây là hai hoạt
động kém hiệu quả nhất trong công trường xây dựng. Ngoài ra sự kết hợp của cơ
giới với lao động thủ công cũng là một lĩnh vực quan trọng cần phải quan tâm đặc
biệt để đạt được tối ưu hiệu quả và chi phí cho các công việc xây dựng. Nếu có thể
thì nên tiến hành kiểm tra nhanh tại công trường về tình hình sử dụng lao động và
máy móc thiết bị theo bảng chấm công và phân công máy móc hàng tuần. Tất nhiên,
việc kiểm soát chi phí vật liệu trên công trường cũng cần thiết nhưng thường thì quá
trình này được tiến hành hàng tháng. Có một khó khăn cơ bản là mức độ chính xác
khi đánh giá vật liệu hay nói cách khác là có sự khác biệt giữa khối lượng vật liệu
chuyển đến công trường và khối lượng vật liệu thực sự sử dụng trong thi công.
Chính vì vậy mà hệ thống kiểm soát chi phí vật liệu cần có sự linh động phù hợp để
cho phép chỉnh sửa và điều chỉnh đặc biệt với khối lượng vật liệu lớn.
2.2.3 Giải pháp thi công
Khi quyết định phương án tổ chức kỹ thuật cho từng quá trình xây lắp, nhiều
chủ đầu tư hay kỹ sư thiết kế đề xuất những phương án thi công hay vật liệu xây
dựng tiêu chuẩn, áp dụng phổ biến trong cả nước cho công trình dự định. Trong khi
các nhà thầu địa phương lại đề xuất những phương án thay thế có tính đến yếu tố
32
tâm lý và sẵn có của địa phương, do vậy trước khi thực hiện dự án cần tiến hành
khảo sát khu vực thi công để biết được những phương pháp và những vật liệu hay
được sử dụng trong các công trường xây dựng và có sự khác biệt với thực tế cả
nước. Từ đó quyết định giải pháp thi công cho công trình mình để tiết kiệm thời
gian cũng như đảm bảo chất lượng công trình theo tiêu chuẩn hiện hành. Việc áp
dụng các biện pháp thi công và vật liệu phổ biến sẵn có tại địa phương thường đem
lại những khoản tiết kiệm đáng kể như thời gian và chi phí so với khi áp dụng
những điều hoàn toàn mới và không quen thuộc vào công trình xây dựng. Thật
không hợp lý nếu yêu cầu các nhà thầu địa phương thực hiện theo những thiết kế
hoàn toàn mới với họ trong khi có thể áp dụng những biện pháp quen thuộc với chi
phí thấp hơn.
Một số ví dụ về phương pháp và vật liệu xây dựng được ưa thích sử dụng tại
các địa phương khác nhau.
- Khu vực phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh chỉ thích dùng cọc ép,
trong khi Hà Nội – cái nôi sinh ra cọc khoan nhồi thì rất hay sử dụng loại này cho
công trình, mặc dù đôi khi giải pháp cọc ép có thể thỏa mãn được nhu cầu chịu lực.
Hay người dân miền Bắc sử dụng Chinfon, Bỉm Sơn và thép Việt Úc hay thép Thái
Nguyên thì người dân miền Nam lại sử dụng xi măng Hà Tiên và thép Vina Kyoe
khi xây dựng công trình.
- Khu vực miền Bắc như Hà Nội, Nam Định thường sử dụng cọc tre dài 1-3
mét để gia cố nền đất yếu. Vì tre là loại vật liệu phổ biến ở đây nên giá cả của chúng
thường thấp và thợ xây miền Bắc có kinh nghiệm đóng cọc tre bằng tay hoặc bằng
máy nén thủ công. Trong khi đó, khu vực miền Nam lại sử dụng cừ tràm – một loại
vật liệu phổ biến của địa phương. Công trình dùng cừ tràm dài tới 5 mét và đóng
xuống nền đất sâu bằng máy xúc hay xe cẩu.
- Khu vực đồng bằng thường dùng gạch, bê tông và sắt thép để xây công nhà
cửa và các công trình dân dụng khác thì khu vực vùng núi lại chọn gỗ, tre, nứa để
xây lên nhà cửa cho người dân .
33
Từ các ví dụ trên cho thấy, việc áp dụng hay quyết định một giải pháp thi
công không hợp lý sẽ gây mất thời gian vì lý do không đáng có.
2.2.4 Công tác chuẩn bị và thủ tục hành chính
Thực tế cho thấy, nếu công việc chuẩn bị tốt sẽ nâng cao năng suất của thiết
bị, máy móc dẫn đến rút ngắn thời gian thực hiện KHTĐTC, nếu công tác chuẩn bị
không tốt, không đủ điều kiện để triển khai thực hiện KHTĐTC sẽ làm kéo dài thời
gian của dự án.
2.2.4.1 Chuẩn bị mặt bằng
Đặc điểm của công trình xây dựng là kích thước hình học lớn, tập trung
nhiều vật tư, thiết bị máy móc, môi trường thi công ngoài trời, thời gian thi công là
dài hạn, do vậy công tác chuẩn bị mặt bằng là vô cùng cần thiết và có ảnh hưởng
lớn đến quá trình thực hiện bản KHTĐTC (VD: Việc làm đường nội bộ, kho bãi lán
trại cho công nhân không đảm bảo có nghĩa là khâu chuẩn bị không tốt, khi triển
khai thi công gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là không triển khai được. Việc không
có kho bãi để tập kết vật tư và các cấu kiện đúc sẵn khi thi công phải mất khoảng
thời gian chung chuyển làm kéo dài thời gian hoàn thành công tác và làm ảnh
hưởng đến KHTĐTC công trình). Tóm lại, muốn công việc được triển khai tốt bắt
buộc công tác chuẩn bị phải được thực hiện tốt mà công tác chuẩn bị mặt bằng là
một khâu rất quan trọng trong nhóm công tác chuẩn bị trước khi thi công.
Do vậy bằng việc kiểm tra khảo sát điều kiện công trường, nhóm thực hiện
dự án sẽ nắm được các thông tin cần thiết như đường xá, điều kiện địa chất, khí hậu
thủy văn và các yếu tố có tác động khác. Với những thông tin cơ bản này, nhóm
thực hiện dự án có thể quyết định tạm thời về vị trí đặt các thiết bị phụ trợ và công
trình tạm, khu vực kho bãi và lán trại công nhân, phương pháp nối kết với hệ thống
điện, nước bên ngoài,… Ngoài ra còn cần chú ý tới biện pháp bảo đảm an toàn lao
động và bảo vệ công trường bằng nhiều biện pháp tích cực như hàng rào bảo vệ,
nhân viên an ninh và giám sát ra vào công trường. Những thông tin này cần được
khảo sát và phân tích chi tiết, cần tính đến những thay đổi có thể xảy ra trong giai
đoạn thi công xây dựng. Điều này yêu cầu toàn bộ các đối tác tham gia dự án như
34
chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn giám sát xây dựng và các nhà thầu phụ, phải lập ra kế
hoạch thi công của riêng họ với các bố trí mặt bằng thích hợp.
Để có được thông tin cần thiết, những đợt thăm và khảo sát công trường cần
được tiến hành sau khi các bản vẽ phục vụ thi công nền móng được hoàn thành.
Những bản vẽ này được thiết kế bởi các kỹ sư chuyên môn, chỉ ra vị trí cụ thể của
công trình và khu vực thi công bắt buộc. Như vậy nhóm thực hiện dự án phải tính
toán, dựa trên bản vẽ thi công nền móng, xem có bao nhiêu diện tích và không gian
tự do bên trong công trường. Từ đó quyết định các phương pháp thi công hợp lý
như vị trí đặt cần cẩu và các máy móc thi công, hướng di chuyển bên trong và ra
vào công trường, phương pháp đào đất và vận chuyển, lưu giữ đất thừa và các vấn
đề khác liên quan. Sau khi có toàn bộ các thông tin và dữ liệu cần thiết, điều quan
trọng là thiết kế ra bản vẽ bố trí công trường tạm, trong đó chỉ ra các vị trí chính xác
cho kho bãi, lán trại, đường đi lại, hướng đi lại [1]…
2.2.4.2 Thủ tục hành chính
Trong quá trình xây dựng có những thủ tục hành chính hay những quy định
bắt buộc của luật xây dựng mà nhóm thực hiện dự án hay các bên tham gia công
trình phải thực hiện. Nếu không xem xét và tìm hiểu kỹ các thủ tục này trước khi
khởi công xây dựng công trình sẽ gây ảnh hưởng tới tiến độ của dự án. Phần này mô
tả quá trình tiến hành thi công công trình theo quy định của Luật xây dựng 2004.
Đây là yếu tố đảm bảo công trình hoàn thành theo quy định của pháp luật.
-
Giấy phép xây dựng và lệnh khởi công
Trước khi khởi công xây dựng công trình chủ đầu tư phải có giấy phép xây
dựng, trừ trường hợp xây dựng các công trình sau đây:
+ Công trình thuộc bí mật Nhà nước, công trình xây dựng theo lệnh khẩn
cấp, công trình tạm phục vụ xây dựng công trình chính;
+ Công trình xây dựng theo tuyến không đi qua đô thị nhưng phù hợp với
quy hoạch xây dựng, dự án đầu tư xây dựng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt;
+ Công trình hạ tầng kỹ thuật quy mô nhỏ thuộc các vùng sâu, vùng xa;
35
+ Nhà ở riêng lẻ tại vùng sâu, vùng xa không thuộc đô thị, không thuộc điểm
dân cư tập trung, điểm dân cư nông thôn chưa có quy hoạch xây dựng được phê
duyệt;
+ Các công trình sửa chữa, cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong không làm thay
đổi kiến trúc, kết cấu chịu lực và an toàn của công trình.
Như vậy nếu như khi tổ chức thực hiện bản KHTĐTC, nghĩa là tổ chức chỉ
đạo thi công mà một trong những thủ tục nêu trên không đầy đủ khi các cơ quan
chức năng kiểm tra, phát hiện yêu cầu dừng thi công sẽ làm ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện kế hoạch tiến độ của dự án.
-
Giải phóng mặt bằng xây dựng công trình
Theo số liệu của Tổng Hội Xây dựng Việt Nam có đến hơn 90% các dự án
sử dụng vốn ngân sách không đáp ứng được nhu cầu tiến độ mà nguyên nhân chính
là không triển khai được khâu giải phóng mặt bằng. Tồn tại vấn đề này chủ yếu là
do quyền lợi của các bên có mâu thuẫn với nhau.
Do vậy, việc giải phóng mặt bằng xây dựng công trình phải đảm bảo các yêu
cầu sau:
+ Việc giải phóng mặt bằng xây dựng phải được lập thành phương án.
Phương án giải phóng mặt bằng xây dựng được thể hiện trong dự án đầu tư xây
dựng công trình và được phê duyệt đồng thời với phê duyệt dự án đầu tư xây dựng
công trình;
+ Đối với các dự án có nhu cầu tái định cư thì phải lập phương án hoặc dự án
tái định cư và phải thực hiện trước khi giải phóng mặt bằng xây dựng;
+ Phạm vi giải phóng mặt bằng xây dựng phải phù hợp với quy hoạch chi tiết
xây dựng và dự án đầu tư xây dựng đã được phê duyệt;
+ Thời hạn giải phóng mặt bằng xây dựng phải đáp ứng theo yêu cầu tiến độ
thực hiện dự án đã được phê duyệt hoặc quyết định của người có thẩm quyền;
Nguyên tắc đền bù tải sản để giải phóng mặt bằng xây dựng:
+ Việc đền bù tài sản để giải phóng mặt bằng xây dựng phải đảm bảo lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân phải giải quyết chỗ ở