1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kiến trúc - Xây dựng >

2 Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện tiến độ xây dựng công trình và giải pháp bảo đảm thực hiện kế hoạch tiến độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.94 KB, 95 trang )


28

2.2.1 Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên

- Điều kiện thời tiết: công trình xây dựng có đặc điểm khối lượng công việc

lớn, thường tổ chức thi công sản xuất ngoài trời, thời gian làm việc kéo dài (có khi

đến vài năm). Chính vì vậy việc mưa bão kéo dài nhiều ngày hay nằm ngoài dự báo

có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian hoàn thành công việc cũng như hoàn thành tiến

độ của công trình.[2]

- Điều kiện địa chất và địa chất thủy văn: điều kiện địa chất và địa chất thủy

văn có ảnh hưởng rất lớn và có tính chất quyết định đến kết cấu, cũng như kỹ thuật

xử lý nền móng của công trình. Chính vì vậy nó làm ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ

thi công. Điều kiện địa chất tốt, ổn định thì việc xử lý nền móng là đơn giản. Công

trình thi công trên khu vực có điều kiện địa chất yếu, không đồng nhất, thì việc xử

lý nền móng là vô cùng phức tạp. Nhiều khi chúng ta không lường trước được hết

những tình huống do điều kiện tự nhiên gây ra, làm tốn phí rất nhiều thời gian cho

công tác khắc phục hay giải pháp thi công thích ứng với điều kiện đó. Đồng thời

tiêu tốn rất nhiều chi phí cho khắc phục hậu quả này.

2.2.2 Tài chính và quản lý chi phí

Như ta đã biết thì việc quản lý tài chính và chi phí là một trong ba mục tiêu

chính của dự án xây dựng. Điều này cũng được chứng minh trong thực tế rằng: tài

chính và chi phí là những yếu tố quan trọng nhất và luôn là điều kiện tiên quyết

đóng góp và sự thành công chung của dự án xây dựng.

Khi công trường khởi động, mọi công việc trong kế hoạch được bắt đầu thì

tài chính là toàn bộ các khoản tiền dùng để mua sắm tài sản như máy móc thi công,

dây chuyền công nghệ, nguyên vật liệu, chi trả lương công nhân… Vậy nên để kế

hoạch công việc vận hành theo dự định thì buộc kế hoạch tài chính của công ty hay

công trường phải vận hành theo, thậm chí kế hoạch tài chính phải vận hành trước để

chuẩn bị cho kế hoạch phần việc trong tiến độ được bắt đầu như mua máy móc,

nhập vật tư… Mọi thay đổi hay trục trặc ngoài ý muốn của kế hoạch tài chính đều

có thể phải trả giá bằng thời gian đối với kế hoạch tiến độ thi công của công trình. Ở

một khía cạnh khác thì chủ đầu tư luôn muốn trả ít tiền nhất cho công trình xây



29

dựng để đạt được kết quả cuối cùng là thỏa mãn yêu cầu của họ, đồng thời cũng

mong muốn công trình được xây dựng và đưa vào sử dụng trong thời gian ngắn nhất

để có thể tạo ra được luồng tiền vào dương. Thêm nữa thì trong quá trình thi công

xây lắp, chủ đầu tư sẽ cố gắng trả tiền muộn nhất có thể để giảm lãi suất trên các

khoản tiền vay của họ xuống mức thấp nhất hoặc những lý do mang tính tâm lý.

Nhà thầu xây lắp thì lại có những chính sách trái ngược với chủ đầu tư về tài chính

xây dựng. Nhà thầu luôn muốn nhận được tiền trả sớm nhất cũng như đẩy nhanh

tiến độ thi công để giảm bớt nguồn vốn sản xuất kinh doanh mà họ phải xoay sở

trong quá trình xây dựng. Như vậy, ở đây có thể sẽ có mâu thuẫn mà nếu không

nghiên cứu kỹ trong hợp đồng xây dựng các dự án sẽ gặp phải trở ngại làm ảnh

hưởng đến tiến độ xây dựng.

Việc nguồn lực tài chính của công ty xây dựng đưa vào công trình không đủ

hay không bám sát KHTĐTC gây gián đoạn quá trình sản xuất, làm lãng phí ca máy

hay tài nguyên nhân lực trên công trường, kéo dài thời hạn hoàn thành dự án

VD: Theo KHTĐTC công trình dân dụng A. Phần thô thời gian thi công là 7

ngày 1 sàn, các công việc phải thực hiện bao gồm:

-



Gia công lắp dựng cốt thép copha cột



-



Bê tông cột



-



Gia công lắp dựng copha dầm sàn



-



Gia công lắp dựng cốt thép dầm sàn



-



Đổ bê tông dầm sàn



Tổng chi phí phải trả cho các công việc khi hoàn thành là 1 tỷ, thanh toán

một lần. Do kế hoạch tài chính của công ty không theo sát bản KHTĐTC chỉ cấp

được 700 triệu, thời gian cấp là giữa và cuối tháng, vì thế công trường không đủ tài

chính để thi công. Những công việc trên hoàn thành phải mất 15 ngày, như vậy là

không hoàn thành đúng thời hạn theo KHTĐTC.

-



Quản lý chi phí xây dựng



Quản lý chi phí xây dựng là một quá trình tổng thể dùng để kiểm soát sự chi

tiêu trong dự án, từ thời điểm hình thành ý tưởng tới khi hoàn thành công trình và

chủ đầu tư trả toàn bộ tiền cho nhà thầu.



30

Trong khi tài chính phụ thuộc vào năng lực hay chính sách của công ty xây

dựng thì quản lý chi phí là công việc của những người có chuyên môn tại công

trường. Việc quản lý chi phí tại công trường làm ảnh hưởng rất lớn đến việc thực

hiện bản KHTĐTC. Cụ thể là nếu không quản lý tốt chi phí có thể xảy ra tình trạng

cấp phát vượt quá khối lượng đã hoàn thành gây khó khăn cho công việc khác, kéo

dài thời gian thực hiện của công việc khác làm ảnh hưởng đến KHTĐTC chung.

Hoặc xác định khối lượng phát sinh không đúng, không phù hợp thực tế làm tăng

chi phí ảnh hưởng đến việc cấp phát thanh toán công việc khác như: thiếu tiền thuê

máy móc, mua vật tư… gây chậm tiến độ của việc đó. Hay việc cấp phát không theo

kế hoạch tài chính dẫn đến tình trạng công việc chưa làm nhưng đã chi trả tiền làm

rối loạn kế hoạch tài chính hoặc phá vỡ kế hoạch tài chính ảnh hưởng đến kế hoạch

thi công.

Trong lĩnh vực xây dựng thì quá trình kiểm soát hay quản lý chi phí phải

được giao cho các kỹ sư xây dựng. Đó là những người hiểu được chính xác giá trị

công việc và có thể lý giải chi tiết chúng theo các điều khoản hợp đồng. Những

người làm kế toán cũng cần có ở công trường, họ sẽ chịu trách nhiệm về việc ghi

chép sổ sách kế toán và thực hiện các thủ tục chi trả tiền. Tuy nhiên những dữ liệu

kế toán ghi chép được thường ít dùng trong quá trình kiểm soát chi phí xây dựng, vì

chúng được thu thập quá muộn để có thể kiểm soát hiệu quả chi phí phải trả.

Mục đích của quản lý chi phí trong xây dựng công trình là đề xuất những giải

pháp tức thì cho các công việc trong hợp đồng để làm tăng tính kinh tế của nhà

thầu. Nếu một công việc hay quá trình thi công mà không hiệu quả thì những cảnh

báo nhanh phải được thông báo đến nhóm thực hiện dự án để có những biện pháp

giải quyết những trục trặc đó. Thường thì không có những dữ liệu lưu giữ lại khi kết

thúc dự án. Do vậy, rất khó có thể chứng minh được một công việc nào đó có được

thực hiện hiệu quả không dựa trên chi phí của nó. Do vậy, để thiết lập được công cụ

quản lý hiệu quả trong những giai đoạn thi công ngắn hạn thì hệ thống kiểm soát chi

phí cần kiểm soát thu chi các nguồn tài chính. Ngoài ra, mối liên hệ giữa giá trị

công việc hoàn thành hay không và chi phí chung của nhà thầu phải được đánh giá



31

thường xuyên. Những mục đích khác nhau của hai lĩnh vực kiểm soát này nhằm

giúp ban quản lý dự án đưa ra các cảnh báo hàng ngày về tình hình tài chính và chi

phí công trường tới ban giám đốc công ty.

Điều thứ ba cần chú ý tới là hệ thống kiểm soát chi phí cần cung cấp dữ liệu

để định giá các thay đổi xuất hiện trong quá trình thi công. Hay một hợp đồng xây

dựng thì giá đơn vị thường phải ứng theo các điều kiện thi công khác nhau. Nếu có

thể thay đổi được các bản ghi chính xác về chi phí thì nhà thầu sẽ dễ dàng thiết lập

được các đơn giá mới cho các phần việc phát sinh. Khi đánh giá các hoạt động của

nhà thầu không hiệu quả và có năng suất thấp, việc tính toán đơn giá theo cách này

giúp nhà thầu đảm bảo được mức giá có thể chấp nhận khi thương thuyết với chủ

đầu tư.

Kiểm soát chi phí cho các hoạt động xây dựng thường chỉ giới hạn cho

những chi phí nhân công và máy móc thiết bị. Nguyên nhân, do đây là hai hoạt

động kém hiệu quả nhất trong công trường xây dựng. Ngoài ra sự kết hợp của cơ

giới với lao động thủ công cũng là một lĩnh vực quan trọng cần phải quan tâm đặc

biệt để đạt được tối ưu hiệu quả và chi phí cho các công việc xây dựng. Nếu có thể

thì nên tiến hành kiểm tra nhanh tại công trường về tình hình sử dụng lao động và

máy móc thiết bị theo bảng chấm công và phân công máy móc hàng tuần. Tất nhiên,

việc kiểm soát chi phí vật liệu trên công trường cũng cần thiết nhưng thường thì quá

trình này được tiến hành hàng tháng. Có một khó khăn cơ bản là mức độ chính xác

khi đánh giá vật liệu hay nói cách khác là có sự khác biệt giữa khối lượng vật liệu

chuyển đến công trường và khối lượng vật liệu thực sự sử dụng trong thi công.

Chính vì vậy mà hệ thống kiểm soát chi phí vật liệu cần có sự linh động phù hợp để

cho phép chỉnh sửa và điều chỉnh đặc biệt với khối lượng vật liệu lớn.

2.2.3 Giải pháp thi công

Khi quyết định phương án tổ chức kỹ thuật cho từng quá trình xây lắp, nhiều

chủ đầu tư hay kỹ sư thiết kế đề xuất những phương án thi công hay vật liệu xây

dựng tiêu chuẩn, áp dụng phổ biến trong cả nước cho công trình dự định. Trong khi

các nhà thầu địa phương lại đề xuất những phương án thay thế có tính đến yếu tố



32

tâm lý và sẵn có của địa phương, do vậy trước khi thực hiện dự án cần tiến hành

khảo sát khu vực thi công để biết được những phương pháp và những vật liệu hay

được sử dụng trong các công trường xây dựng và có sự khác biệt với thực tế cả

nước. Từ đó quyết định giải pháp thi công cho công trình mình để tiết kiệm thời

gian cũng như đảm bảo chất lượng công trình theo tiêu chuẩn hiện hành. Việc áp

dụng các biện pháp thi công và vật liệu phổ biến sẵn có tại địa phương thường đem

lại những khoản tiết kiệm đáng kể như thời gian và chi phí so với khi áp dụng

những điều hoàn toàn mới và không quen thuộc vào công trình xây dựng. Thật

không hợp lý nếu yêu cầu các nhà thầu địa phương thực hiện theo những thiết kế

hoàn toàn mới với họ trong khi có thể áp dụng những biện pháp quen thuộc với chi

phí thấp hơn.

Một số ví dụ về phương pháp và vật liệu xây dựng được ưa thích sử dụng tại

các địa phương khác nhau.

- Khu vực phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh chỉ thích dùng cọc ép,

trong khi Hà Nội – cái nôi sinh ra cọc khoan nhồi thì rất hay sử dụng loại này cho

công trình, mặc dù đôi khi giải pháp cọc ép có thể thỏa mãn được nhu cầu chịu lực.

Hay người dân miền Bắc sử dụng Chinfon, Bỉm Sơn và thép Việt Úc hay thép Thái

Nguyên thì người dân miền Nam lại sử dụng xi măng Hà Tiên và thép Vina Kyoe

khi xây dựng công trình.

- Khu vực miền Bắc như Hà Nội, Nam Định thường sử dụng cọc tre dài 1-3

mét để gia cố nền đất yếu. Vì tre là loại vật liệu phổ biến ở đây nên giá cả của chúng

thường thấp và thợ xây miền Bắc có kinh nghiệm đóng cọc tre bằng tay hoặc bằng

máy nén thủ công. Trong khi đó, khu vực miền Nam lại sử dụng cừ tràm – một loại

vật liệu phổ biến của địa phương. Công trình dùng cừ tràm dài tới 5 mét và đóng

xuống nền đất sâu bằng máy xúc hay xe cẩu.

- Khu vực đồng bằng thường dùng gạch, bê tông và sắt thép để xây công nhà

cửa và các công trình dân dụng khác thì khu vực vùng núi lại chọn gỗ, tre, nứa để

xây lên nhà cửa cho người dân .



33

Từ các ví dụ trên cho thấy, việc áp dụng hay quyết định một giải pháp thi

công không hợp lý sẽ gây mất thời gian vì lý do không đáng có.

2.2.4 Công tác chuẩn bị và thủ tục hành chính

Thực tế cho thấy, nếu công việc chuẩn bị tốt sẽ nâng cao năng suất của thiết

bị, máy móc dẫn đến rút ngắn thời gian thực hiện KHTĐTC, nếu công tác chuẩn bị

không tốt, không đủ điều kiện để triển khai thực hiện KHTĐTC sẽ làm kéo dài thời

gian của dự án.

2.2.4.1 Chuẩn bị mặt bằng

Đặc điểm của công trình xây dựng là kích thước hình học lớn, tập trung

nhiều vật tư, thiết bị máy móc, môi trường thi công ngoài trời, thời gian thi công là

dài hạn, do vậy công tác chuẩn bị mặt bằng là vô cùng cần thiết và có ảnh hưởng

lớn đến quá trình thực hiện bản KHTĐTC (VD: Việc làm đường nội bộ, kho bãi lán

trại cho công nhân không đảm bảo có nghĩa là khâu chuẩn bị không tốt, khi triển

khai thi công gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là không triển khai được. Việc không

có kho bãi để tập kết vật tư và các cấu kiện đúc sẵn khi thi công phải mất khoảng

thời gian chung chuyển làm kéo dài thời gian hoàn thành công tác và làm ảnh

hưởng đến KHTĐTC công trình). Tóm lại, muốn công việc được triển khai tốt bắt

buộc công tác chuẩn bị phải được thực hiện tốt mà công tác chuẩn bị mặt bằng là

một khâu rất quan trọng trong nhóm công tác chuẩn bị trước khi thi công.

Do vậy bằng việc kiểm tra khảo sát điều kiện công trường, nhóm thực hiện

dự án sẽ nắm được các thông tin cần thiết như đường xá, điều kiện địa chất, khí hậu

thủy văn và các yếu tố có tác động khác. Với những thông tin cơ bản này, nhóm

thực hiện dự án có thể quyết định tạm thời về vị trí đặt các thiết bị phụ trợ và công

trình tạm, khu vực kho bãi và lán trại công nhân, phương pháp nối kết với hệ thống

điện, nước bên ngoài,… Ngoài ra còn cần chú ý tới biện pháp bảo đảm an toàn lao

động và bảo vệ công trường bằng nhiều biện pháp tích cực như hàng rào bảo vệ,

nhân viên an ninh và giám sát ra vào công trường. Những thông tin này cần được

khảo sát và phân tích chi tiết, cần tính đến những thay đổi có thể xảy ra trong giai

đoạn thi công xây dựng. Điều này yêu cầu toàn bộ các đối tác tham gia dự án như



34

chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn giám sát xây dựng và các nhà thầu phụ, phải lập ra kế

hoạch thi công của riêng họ với các bố trí mặt bằng thích hợp.

Để có được thông tin cần thiết, những đợt thăm và khảo sát công trường cần

được tiến hành sau khi các bản vẽ phục vụ thi công nền móng được hoàn thành.

Những bản vẽ này được thiết kế bởi các kỹ sư chuyên môn, chỉ ra vị trí cụ thể của

công trình và khu vực thi công bắt buộc. Như vậy nhóm thực hiện dự án phải tính

toán, dựa trên bản vẽ thi công nền móng, xem có bao nhiêu diện tích và không gian

tự do bên trong công trường. Từ đó quyết định các phương pháp thi công hợp lý

như vị trí đặt cần cẩu và các máy móc thi công, hướng di chuyển bên trong và ra

vào công trường, phương pháp đào đất và vận chuyển, lưu giữ đất thừa và các vấn

đề khác liên quan. Sau khi có toàn bộ các thông tin và dữ liệu cần thiết, điều quan

trọng là thiết kế ra bản vẽ bố trí công trường tạm, trong đó chỉ ra các vị trí chính xác

cho kho bãi, lán trại, đường đi lại, hướng đi lại [1]…

2.2.4.2 Thủ tục hành chính

Trong quá trình xây dựng có những thủ tục hành chính hay những quy định

bắt buộc của luật xây dựng mà nhóm thực hiện dự án hay các bên tham gia công

trình phải thực hiện. Nếu không xem xét và tìm hiểu kỹ các thủ tục này trước khi

khởi công xây dựng công trình sẽ gây ảnh hưởng tới tiến độ của dự án. Phần này mô

tả quá trình tiến hành thi công công trình theo quy định của Luật xây dựng 2004.

Đây là yếu tố đảm bảo công trình hoàn thành theo quy định của pháp luật.

-



Giấy phép xây dựng và lệnh khởi công



Trước khi khởi công xây dựng công trình chủ đầu tư phải có giấy phép xây

dựng, trừ trường hợp xây dựng các công trình sau đây:

+ Công trình thuộc bí mật Nhà nước, công trình xây dựng theo lệnh khẩn

cấp, công trình tạm phục vụ xây dựng công trình chính;

+ Công trình xây dựng theo tuyến không đi qua đô thị nhưng phù hợp với

quy hoạch xây dựng, dự án đầu tư xây dựng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền phê duyệt;

+ Công trình hạ tầng kỹ thuật quy mô nhỏ thuộc các vùng sâu, vùng xa;



35

+ Nhà ở riêng lẻ tại vùng sâu, vùng xa không thuộc đô thị, không thuộc điểm

dân cư tập trung, điểm dân cư nông thôn chưa có quy hoạch xây dựng được phê

duyệt;

+ Các công trình sửa chữa, cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong không làm thay

đổi kiến trúc, kết cấu chịu lực và an toàn của công trình.

Như vậy nếu như khi tổ chức thực hiện bản KHTĐTC, nghĩa là tổ chức chỉ

đạo thi công mà một trong những thủ tục nêu trên không đầy đủ khi các cơ quan

chức năng kiểm tra, phát hiện yêu cầu dừng thi công sẽ làm ảnh hưởng đến quá

trình thực hiện kế hoạch tiến độ của dự án.

-



Giải phóng mặt bằng xây dựng công trình



Theo số liệu của Tổng Hội Xây dựng Việt Nam có đến hơn 90% các dự án

sử dụng vốn ngân sách không đáp ứng được nhu cầu tiến độ mà nguyên nhân chính

là không triển khai được khâu giải phóng mặt bằng. Tồn tại vấn đề này chủ yếu là

do quyền lợi của các bên có mâu thuẫn với nhau.

Do vậy, việc giải phóng mặt bằng xây dựng công trình phải đảm bảo các yêu

cầu sau:

+ Việc giải phóng mặt bằng xây dựng phải được lập thành phương án.

Phương án giải phóng mặt bằng xây dựng được thể hiện trong dự án đầu tư xây

dựng công trình và được phê duyệt đồng thời với phê duyệt dự án đầu tư xây dựng

công trình;

+ Đối với các dự án có nhu cầu tái định cư thì phải lập phương án hoặc dự án

tái định cư và phải thực hiện trước khi giải phóng mặt bằng xây dựng;

+ Phạm vi giải phóng mặt bằng xây dựng phải phù hợp với quy hoạch chi tiết

xây dựng và dự án đầu tư xây dựng đã được phê duyệt;

+ Thời hạn giải phóng mặt bằng xây dựng phải đáp ứng theo yêu cầu tiến độ

thực hiện dự án đã được phê duyệt hoặc quyết định của người có thẩm quyền;

Nguyên tắc đền bù tải sản để giải phóng mặt bằng xây dựng:

+ Việc đền bù tài sản để giải phóng mặt bằng xây dựng phải đảm bảo lợi ích

của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân phải giải quyết chỗ ở



36

mới ổn định, có điều kiện chỗ ở bằng hoặc tốt hơn chỗ ở cũ, hỗ trợ tạo việc làm, ổn

định cuộc sống cho người phải di chuyển, trừ trường hợp có thỏa thuận khác nữa

với các bên liên quan.

+ Việc đền bù tài sản để giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình hạ

tầng kỹ thuật trong đô thị thì phương án giải phóng mặt bằng phải đảm bảo vừa xây

dựng được công trình mới, vừa chỉnh trang được các công trình mặt phố theo quy

hoạch chi tiết xây dựng được duyệt; bảo đảm nhà nước điều tiết được giá trị chênh

lệch về đất sau khi giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng công trình.

+ Không đền bù trong các trường hợp sau đây: đất lấn chiếm; công trình xây

dựng trái phép; vật kiến trúc; cây cối; hoa màu và tài sản khác xuất hiện hoặc phát

sinh trong phạm vi mặt bằng quy hoạch xây dựng sau thời điểm công bố quy hoạch

xây dựng; các trường hợp khác theo quy định về pháp luật về đất đai.

2.2.5 Quản lý chất lượng xây dựng công trình

- Nghiệm thu công việc và các hạng mục công việc

Việc nghiệm thu công trình xây dựng phải thực hiện các quy định sau đây:

+ Tuân theo các quy đinh về quản lý chất lượng công trình;

+ Nghiệm thu từng công việc, từng bộ phận, từng giai đoạn, từng hạng mục

công trình, nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng. Riêng các bộ phận bị che khuất

của công trình phải được nghiệm thu và vẽ bản vẽ hoàn công trước khi tiến hành

các công việc tiếp theo;

+ Chỉ được nghiệm thu khi đối tượng nghiệm thu đã hoàn thành và có đủ hồ

sơ theo quy định;

+ Công trình chỉ được nghiệm thu đưa vào sử dụng khi đảm bảo đúng yêu

cầu thiết kế, đảm bảo chất lượng, đạt tiêu chuẩn theo quy định.

Tuy nhiên trong quá trình thi công thực tế, nếu cứ áp dụng những quy định

này một cách máy móc và cứng nhắc nhiều khi làm ảnh hưởng đến việc thực hiện

KHTĐTC (VD: khi lập tiến độ thi công công trình nhà ở dân dụng, áp dụng phương

pháp tổ chức thi công dây chuyền: đổ bê tông cột xong, tháo copha cột và công tác

copha dầm bắt đầu ngay để rút ngắn thời gian thi công. Tuy nhiên nếu phải đợi



37

nghiệm thu bê tông cột mới cho triển khai công việc tiếp theo thì ít nhất phải mất 7

ngày hoặc 28 ngày công việc copha dầm mới được bắt đầu).

-



Giám sát thi công xây dựng công trình

Việc tổ chức giám sát thi công xây dựng công trình nhằm đảm chất lượng



công trình thường được tổ chức dưới hai hình thức:

+ Chủ đầu tư tự tổ chức giám sát công trình nếu có đủ năng lực chuyên môn

+ Chủ đầu tư thuê đơn vị tư vấn giám sát độc lập để giám sát công trình

Cả hai hình thức trên đều phải sử dụng những người có năng lực chuyên môn

để giám sát thi công xây dựng công trình với những công việc cụ thể: kiểm tra và tư

vấn những giải pháp cho nhà thầu và chủ đầu tư về chất lượng, khối lượng, tiến độ,

an toàn lao động và vệ sinh môi trường trong thi công xây dựng công trình.

Tuy nhiên với hình thức chủ đầu tư tự giám sát nhiều khi gây khó khăn cho

nhà thầu khi thực hiện KHTĐTC vì tính không chuyên nghiệp của lực lượng giám

sát. Thường chỉ thực hiện vai trò giám sát kỹ thuật và chất lượng mà không phát

huy được vai trò tư vấn (VD: Khi thi công công trình mà chủ đầu tư là những đơn vị

quân đội. Chủ đầu tư thường sử dụng cán bộ doanh trại làm cán bộ tư vấn giám sát.

Lực lượng này hoàn toàn không chuyên nghiệp vì vậy rất hay xảy ra những xung

đột với nhà thầu và nhiều khi làm chậm quá trình hoàn thành nhưng công việc).

2.2.6 Hồ sơ thiết kế bản vẽ kỹ thuật thi công

Trong xây dựng công trình, hồ sơ thiết kế bản vẽ kỹ thuật thi công

(HSTKBVKTTC) là một tài liệu quan trọng. Nó chứa đựng toàn bộ những nội dung

như: hình dáng, kích thước, công năng cũng như chất lượng về mặt kỹ thuật của

công trình (do nhà thầu tư vấn thiết kế lập). Chính vì thế có thể hiểu

HSTKBVKTTC là một công trình trên giấy. Với công trình dân dụng thông thường

HSTKBVKTTC gồm có: phần kiến trúc, phần kết cấu, phần điện nước… Tất cả

những phần này phải có mối quan hệ thống nhất với nhau. Vì một lý do nào đó mà

các hồ sơ này có những sai sót hay không đồng nhất mà nhưng bên liên quan không

kịp thời giải quyết đều có thể phải trả giá bằng những phiền hà không đáng có và

thời gian cho việc thực hiện kế hoạch thi công công trình.



38

2.2.7 Hợp đồng xây dựng

Là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thực

hiện toàn bộ hay một số công việc trong hoạt động xây dựng. Hợp đồng xây dựng là

văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, nội

dung hợp đồng phải nêu rõ trách nhiệm thực hiện của các bên liên quan và những

điều khoản đã ký kết là căn cứ để thanh toán và phân xử những tranh chấp (nếu có)

trong quan hệ hợp đồng.

Có rất nhiều loại hợp đồng nhưng ở mục này chỉ xét đến hợp đồng thi công

xây dựng công trình. Hợp đồng thi công xây dựng công trình có các hình thức sau:

-



Giá hợp đồng trọn gói



-



Giá hợp đồng cố định



-



Giá hợp đồng theo giá điều chỉnh



-



Giá hợp đồng kết hợp các loại trên



Dù ở dạng nào thì các điều khoản đều phải trong hợp đồng đều phải rõ ràng

từ ngữ phải dễ hiểu để tránh những hiểu nhầm hoặc tranh chấp không đáng có giữa

các bên. Tất cả những tranh chấp hay hiểu nhầm không đáng có này đều có ảnh

hưởng đến quá trình thực hiện kế hoạch tiến độ thi công công trình (KHTĐTCCT).

2.2.8 Giá cả và tình hình biến động giá cả trên thị trường

Thực tế đã chứng minh yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện bản

KHTĐTCCT, một khi thị trường giá cả biến động thường là tăng lên sẽ làm thiếu

hụt tài chính của dự án, gây khó khăn cho nhà thầu thi công, nếu không lựa chọn

nhà thầu có đủ điều kiện về năng lực tài chính có thể dẫn đến việc kéo dài thời gian

thi công do phải chờ huy động vốn từ các nguồn khác hoặc thậm chí chấm dứt hợp

đồng vì không có vốn để thi công.

2.2.9 Cung cấp vật tư và thiết bị xây dựng

Trong lĩnh vực xây dựng, vật liệu là một trong các yếu tố quyết định chất

lượng, giá thành và thời gian thi công công trình. Thông thường thì chi phí về vật

liệu xây dựng chiếm một tỉ lệ tương đối lớn trong giá thành xây dựng, 75 – 80% đối

với công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, 50 – 55% đối với các công trình



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

×