Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.94 KB, 95 trang )
38
2.2.7 Hợp đồng xây dựng
Là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thực
hiện toàn bộ hay một số công việc trong hoạt động xây dựng. Hợp đồng xây dựng là
văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, nội
dung hợp đồng phải nêu rõ trách nhiệm thực hiện của các bên liên quan và những
điều khoản đã ký kết là căn cứ để thanh toán và phân xử những tranh chấp (nếu có)
trong quan hệ hợp đồng.
Có rất nhiều loại hợp đồng nhưng ở mục này chỉ xét đến hợp đồng thi công
xây dựng công trình. Hợp đồng thi công xây dựng công trình có các hình thức sau:
-
Giá hợp đồng trọn gói
-
Giá hợp đồng cố định
-
Giá hợp đồng theo giá điều chỉnh
-
Giá hợp đồng kết hợp các loại trên
Dù ở dạng nào thì các điều khoản đều phải trong hợp đồng đều phải rõ ràng
từ ngữ phải dễ hiểu để tránh những hiểu nhầm hoặc tranh chấp không đáng có giữa
các bên. Tất cả những tranh chấp hay hiểu nhầm không đáng có này đều có ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện kế hoạch tiến độ thi công công trình (KHTĐTCCT).
2.2.8 Giá cả và tình hình biến động giá cả trên thị trường
Thực tế đã chứng minh yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện bản
KHTĐTCCT, một khi thị trường giá cả biến động thường là tăng lên sẽ làm thiếu
hụt tài chính của dự án, gây khó khăn cho nhà thầu thi công, nếu không lựa chọn
nhà thầu có đủ điều kiện về năng lực tài chính có thể dẫn đến việc kéo dài thời gian
thi công do phải chờ huy động vốn từ các nguồn khác hoặc thậm chí chấm dứt hợp
đồng vì không có vốn để thi công.
2.2.9 Cung cấp vật tư và thiết bị xây dựng
Trong lĩnh vực xây dựng, vật liệu là một trong các yếu tố quyết định chất
lượng, giá thành và thời gian thi công công trình. Thông thường thì chi phí về vật
liệu xây dựng chiếm một tỉ lệ tương đối lớn trong giá thành xây dựng, 75 – 80% đối
với công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, 50 – 55% đối với các công trình
39
thủy lợi. Như vậy muốn thực hiện được tiến độ thi công thì phải đảm bảo việc cung
cấp vật liệu xây dựng, thiết bị đúng chất lượng, đủ số lượng và kịp thời hạn. Một
trong những công việc quan trọng trong công tác lập kế hoạch tiến độ là ngoài việc
lập kế hoạch công việc, vẽ biểu đồ nhân lực còn phải vẽ biểu đồ về việc sử dụng vật
liệu và máy móc thiết bị xây dựng làm cơ sở cho việc điều hành sản xuất sau này.
Không để xảy ra tình trạng thừa thiếu, ứ đọng vật tư hay máy móc thi công.
Chính vì vậy để vận hành tốt bản KHTĐTCCT, trong giai đoạn chuẩn bị phải
tổ chức hệ thống cung ứng cho công trường bao gồm những công việc chính sau:
- Sản xuất ra vật liệu cấu kiện hoặc đặt hàng ở nơi khác.
- Chuyên chở về các kho bãi hoặc địa điểm cung ứng
- Cung cấp các dụng cụ lao động, thiết bị và máy móc thi công.
- Cung cấp điện nước, khí nén, nhiên liệu.
Ba nhiệm vụ chính của bộ phận cung ứng là:
- Đặt và nhận hàng
- Vận chuyển hàng
- Cất chứa, bảo quản và cấp phát cho các đơn vị thi công.
Để làm tốt nhiệm vụ, bộ phận cung ứng cần phải:
- Lên kế hoạch về nhu cầu vật liệu, bán thành phẩm, cấu kiện, máy móc, thiết
bị…
- Dự trù ngân sách
- Ký hợp đồng với các cơ sở sản xuất
- Kiểm tra theo dõi hợp đồng
- Tổ chức và theo dõi sự vận chuyển trên các ngả đường, tiếp nhận hàng và
chở đến các nơi tiêu thụ hoặc các kho bãi.
- Cất chứa, bảo vệ, ghi chép sổ sách.
- Cấp phát đầy đủ cho các đơn vị thi công.
Chỉ khi nào công trường thi công có đầy đủ vật liệu, máy móc thiết bị thi
công thì mới có thể đạt chỉ tiêu hoàn thành tiến độ thi công công trình.
40
2.3 Các phương pháp đánh giá sự hợp lý của bản kế hoạch tiến độ xây dựng
Khi đã có các căn cứ và lựa chọn được phương pháp lập, dựa vào các nguyên
tắc chung lúc này tiến độ sơ bộ được thiết lập. Từ đây người lập tiến độ xem xét,
nghiên cứu đánh giá sự hợp lý của kế hoạch vừa lập trước khi trình ký duyệt và bắt
tay vào điều hành sản xuất. Có nhiều phương pháp hay yếu tố làm căn cứ đánh giá.
Phần này chỉ giới thiệu một số phương pháp cụ thể như sau:
2.3.1 Đánh giá về quy trình kỹ thuật
Nội dung của bản KHTĐTC gồm: các công việc được thể hiện theo thời
gian, các loại nguồn lực đi theo nó, các công việc này có quan hệ bắt buộc với nhau
bằng những mối quan hệ hay ràng buộc về mặt kỹ thuật đã được quy định tại các
quy trình kỹ thuật hay quy chuẩn, tiêu chuẩn.
Như vậy, việc đánh giá sự hợp lý của bản KHTĐTC thực chất là xem xét
đánh giá các công việc theo quy trình kỹ thuật mà hồ sơ thiết kế kỹ thuật yêu cầu
hay tiêu chuẩn xây dựng đã ban hành, nhằm cụ thể hóa chất lượng công trình khi
hoàn thành đưa vào sử dụng.
Việc đánh giá về quy trình kỹ thuật là phải xác định trình tự trước sau các
công việc và mối quan hệ của chúng để đảm bảo chất lượng công trình ổn định và
bất biến công trình vừa thi công xong, an toàn cho công tác kết hợp, sao cho việc thi
công công tác sau không ảnh hưởng đến chất lượng hoặc hư hại đến công việc đã
hoàn thành trước.
Từ đó ta đưa ra năm nguyên tố về trình tự thi công như sau:
-
Ngoài công trường trước, trong công trường sau. Trước khi xây dựng công
trình phải làm đường, điện nước từ ngoài vào đến công trường.
-
Ngoài nhà trước, trong nhà sau. Trước khi bắt tay vào thi công ta phải tiến
hành san nền, làm rãnh tiêu thoát nước, làm đường nội thủy, kho bãi…
-
Dưới mặt đất trước, trên mặt đất sau, chỗ nông trước chỗ sâu sau. Đặt hệ
thống cống ngầm trước khi làm mặt đường.
-
Cuối nguồn làm trước, đầu nguồn làm sau. Đặt đường cống phải đặt từ hạ
lưu đến thượng lưu, phần cuối làm trước để tận dụng tiêu thoát nước ngầm, thuận
41
tiện thi công phần đất thấp. Kết cấu trước, trang trí sau, kết cấu từ dưới lên, trang trí
từ trên xuống. Thi công kết cấu phải từ móng đến mái. Hoàn thiện từ mái xuống nếu
nhà một tầng, nếu nhà nhiều tầng thì có thể trang trí phần dưới khi phần thi công kết
cấu đã hoàn thành từ ba sàn. Trát trần trước, trát tường sau và láng nền sau khi sơn
tường…
Như vậy một kế hoạch được đánh giá là đúng quy trình kỹ thuật khi trình bày
hay biểu diễn trên kế hoạch tiến độ phải thể hiện được những nguyên tắc như đã
trình bày ở trên. Ngoài ra đối với công trình dân dụng còn phải thỏa mãn, tại mỗi
phân đoạn công tác phải thi công phần móng và cống ngầm trước, lấp đất và san
bằng mặt bằng công trình mới bắt đầu xây lắp tầng nhà.
Đối với nhà gạch thì xây xong tường tầng thứ nhất, lắp các tấm sàn tầng, xây
cầu thang cho tầng đó rồi mới được xây tường tầng trên rồi cứ thế tiếp tục với các
tầng tiếp theo. Đối với nhà ở lắp ghép thì chỉ được lắp ghép các kết cấu tầng trên
sau khi đã liên kết vững chắc toàn bộ các kết cấu trong phạm vi phân đoạn nhà.
Những công tác xây dựng bên trong nhà và các công tác đường ống cấp thoát
nước, điện (từ công tác thiết bị vệ sinh, thiết bị điện) có thể tiến hành cùng lúc với
công tác xây lắp phần nhà chịu lực nhưng phải tiến hành chậm hơn ít nhất hai tầng
và với điều kiện là ở phía trên nơi đang tiến hành công tác đó không được làm công
tác lắp ghép kết cấu hoặc xây tường bên trong các tầng nhà. Trước khi tiến hành
trát, láng phải tiến hành các công tác sau: xây dựng các vách ngăn lắp các ô cửa sổ,
đặt các đường ống thoát nước và vệ sinh, các đường điện ngầm.
Thi công rải lớp lót sàn sau khi đã lợp mái hoặc đã thi công lớp chống thấm
cho các sàn tầng trên. Trát tường xong mới lát sàn, đặt các ống ngỏ (không chôn
ngầm) và mắc các thiết bị vệ sinh trên tường sàn khi trát xong tường. Chỉ được sơn
bả sau khi lớp vữa trát thật khô.
Tóm lại quy trình kỹ thuật là sự trước sau của các công tác, thời gian, giai
đoạn kỹ thuật là bao nhiêu, không thể vì mục tiêu rút ngắn thời gian hoàn thành
công trình mà rút ngắn thời gian giai đoạn kỹ thuật. Mặt khác quy trình kỹ thuật
đảm bảo giúp cho việc bố trí tổ chức sản xuất trên công trường được thực hiện một
42
cách nhịp nhàng, không chồng chéo, tranh chấp mặt bằng. Là cơ sở khoa học cần
thiết cho tiến độ dự án đi đến một cách chuẩn xác nhất. Vì vậy người lập kế hoạch
tiến độ nhất quyết phải quan tâm tới điều này.
2.3.2 Đánh giá về việc sử dụng vốn đầu tư
Mục đích đưa tiền vốn vào công trình hợp lý[8]
Vốn đầu tư là lượng tiền bỏ vào công trình. Tiền vốn là loại tài nguyên sử
dụng một lần, nó chỉ sinh lợi khi công trình hoạt động. Vì vậy việc đưa tiền vào một
công trình là một chỉ tiêu quan trọng của một tiến độ.
Khi thiết kế tổ chức xây dựng người ta thường xem xét biểu đồ cung cấp vốn
xây dựng cơ bản. Đối với người xây dựng vốn thường vay ngân hàng phải chịu một
lãi suất. Người xây dựng chỉ trả được khi bên A tạm ứng hoặc thanh toán hợp đồng.
Trường hợp bên A không tạm ứng kịp thời thì bên chủ thầu phải chịu lãi suất ngân
hàng. Vì vậy tiền đưa vào công trình càng sớm càng dễ bị ứ đọng gây nên thua thiệt
cho người xây dựng. Người ta phải tìm cách đưa tiền vốn vào công trình sao cho ứ
đọng thấp nhất.
Hình thức đưa tiền vốn vào công trình có ba dạng cơ bản (được thể hiện trên
hình 2.1). Đường vi phân đưa tiền vào công trình thể hiện lượng tiền chi phí cho các
công tác xây lắp tại các khoảng thời gian theo tiến độ (tuần, quý, tháng, năm).
Hình 2.1a - đưa tiền vào công trình đều đặn, từ lúc bắt đầu tới lúc kết thúc
lượng vốn đầu tư trong khoảng thời gian như nhau.
Hình 2.1b - đưa tiền vào công trình tăng dần, lúc đầu chi phí ít sau tăng dần
lên, lúc kết thúc đưa tiền vào công trình cao nhất.
Hình 2.1c - đưa tiền vào công trình giảm dần, lúc đầu lớn nhất sau giảm dần,
lúc kết thúc lượng tiền đưa vào ít nhất.
Để đánh giá ba hình thức đầu tư trên vào công trình người ta vẽ biểu đồ tích
phân vốn đầu tư (đường tổng chi phí). Trên hình 2.2 ta có ba đường tích phân tương
ứng với ba cách đầu tư ở trên.
43
Tong R
Tong R
t) =
C
a
o+
Tong R
t
a
R(
R (t) =
Co - a
R (t) = C
a
Co
0
t
0
t
t
t
0
Hình 2.1 Hình thức đầu tư vào công trình
a- Đầu tư đều; b- Đầu tư tăng dần; c- Đầu tư giảm dần
Tong R (t)
Tong R (t)
F1
0
Tong R (t)
F2
T
t
0
F3
T t
0
T
t
Hình 2.2 Đường tích phân vốn đầu tư vào công trình
a- Đầu tư đều; b- Đầu tư tăng dần; c- Đầu tư giảm dần
Đường tích phân thể hiện tổng vốn đưa vào công trình đến các thời điểm
trong tiến độ trên. Nó thể hiện tổng số tiền đưa vào công tác xây dựng đến thời điển
ta xét (t). Hiển nhiên dạng đường tích phân phụ thuộc vào đường vi phân. Đường
tích phân 2.2a là dạng đường thẳng, đường tích phân 2.2b là dạng đường parabol
lõm còn 2.2c là đường parabol lồi. Vì ba hình thức đầu tư cho cùng một công trình
nên giá trị cuối cùng đều bằng nhau (C). Diện tích phần gạch giữa đường tích phân
và trục (T) thể hiện ứ đọng tiền vốn vào công trình. Mục đích của người làm kinh tế
là sao cho ứ đọng vốn thấp nhất – rõ ràng khi đường tích phân có diện tích phần
gạch chéo bé nhất.
Đối với một công trình dù đầu tư tiền theo cách nào cũng phải bảo đảm thời
hạn thi công và giá thành không đổi. Nghĩa là có chung (T) và (C). Vậy với phép
tính tích phân đơn giản ta tính được:
Fa = 0.5 CT ; Fb = 0.33 CT ; Fc = 0.66 CT
44
Như vậy khi lập tiến độ thi công công trình ta tổ chức các công việc sao cho
đường vi phân đầu tư vốn dạng tăng dần để đường tích phân có diện tích nhỏ nhất.
Tuy nhiên khi tiến độ lập theo đường tích phân có diện tích nhỏ nhất nghĩa là
các công việc lùi lại phía sau đặc biệt những công việc có chi phí lớn sẽ tăng sự
nguy hiểm khi tiến độ bị sai lệch.
Để chứng minh cho khái niệm ta xét hình 2.3 thể hiện kế hoạch xây dựng
một công trình tiến độ lập theo sơ đồ mạng. Hai đường cong Ca, Cb là đường giới
hạn tích phân trên và dưới của phương thức đầu tư tiền vốn vào công trình.
?R
C
Ca
Ci
Cb
0
T
t
Hình 2.3 Đường tích phân đầu tư hợp lý vốn vào công trình
Đường Ca tương ứng trường hợp tất cả các công việc bắt đầu và kết thúc với
thời điểm sớm. Đường Cb tương ứng trường hợp tất cả các công việc bắt đầu và kết
thúc với thời điểm muộn nhất. Như vậy vốn ứ đọng trong trường hợp (b) là nhỏ nhất
nhưng tất cả các công việc không còn dự trữ. Nếu có sự trục trặc sẽ làm kéo dài thời
hạn thi công hoặc khắc phục cũng sẽ làm tăng giá xây dựng. Thực tế phải tìm Ci sao
cho vẫn có dự trữ thời gian để đảm bảo thi công không có nguy cơ chậm tiến độ.
2.3.3 Đánh giá về việc sử dụng vật tư, trang thiết bị, con người
-
[8]
Sử dụng nhân lực điều hòa trong sản xuất (tính điều hòa đánh giá qua biểu
đồ nhân lực)
45
Biểu đồ nhân lực điều hòa khi số công nhân tăng từ từ trong thời gian dài và
giảm dần khi công trường không có tăng giảm đột biến. Nếu số công nhân sử dụng
không điều hòa sẽ có lúc quân số tập trong quá cao, có lúc xuống thấp làm cho các
phụ phí tăng theo và lãng phí tài nguyên. Các phụ phí đó chi vào việc tuyển dụng,
xây dựng nhà cửa lán trại và việc dịch vụ đời sống hàng ngày. Tập trung nhiều
người trong thời gian ngắn gây lãng phí những cơ sở phục vụ cũng như máy móc vì
sử dụng ít không kịp khấu hao. Vậy một biểu đồ nhân lực hợp lý (tăng từ từ ở đoạn
đầu và giảm dần ở cuối, số người ổn định càng gần mức trung bình càng tốt) là một
tiêu chuẩn đánh giá tiến độ thi công.
Trên biểu đồ nhân lực tính điều hòa thể hiện bằng đường cong nuột tăng
giảm từ từ không có biến động.
So nhan cong N
a
c
b
Nbmax
Namax
Ntb
0
Tvd
Tv
Tv
Thoi gian t
T
Hình 2.4 Đặc tính biểu đồ nhân lực
Đánh giá biểu đồ nhân lực người ta sử dụng các hệ số điều hòa K1 và hệ số
ổn định K2
K1 =
( 2.10)
46
(2.11)
K2 =
Trong đó: Ntb - số công nhân trung bình tính theo ( 2 .12)
( 2.12 )
Ntb =
Với: Nmax – số công nhân tập trung cao nhất;
T – thời gian thi công;
Tv – thời gian số công nhân tập trung vượt quá số công nhân trung bình;
Ld – nhân công cần thiết cho thi công công trình, là diện tích giữa trục T
và biểu đồ.
Hiển nhiên K1 và K2 càng tiến tới 1 càng tốt. Qua hệ số ổn định K2 ta thấy khi
biểu đồ nhân lực có những biến động thất thường phải tuân theo quy tắc: không
được nhô cao ngắn hạn và trũng sâu dài hạn (hình 2.4) vì cả hai trường hợp này đều
làm giảm giá trị K2 vì To nhỏ.
Diện tích giới hạn trong biểu đồ nhân lực thể hiện công lao động. Như vậy
diện tích càng nhỏ thể hiện công trình sử dụng lao động sống ít hiển nhiên năng suất
lao động sẽ cao. Đây cũng là mục tiêu của người lập kế hoạch thi công.
N
Ntb
N
Tv
T'v2
T'v1
t
0
T
t
0
T
Hình 2.5 Biểu đồ nhân lực không ổn định
a- Nhô cao ngắn hạn; b- Trũng sâu dài hạn
47
2.4 Điều khiển và quản lý tiến độ xây dựng công trình
Khi tiến độ xây dựng công trình đã hoàn thành được đánh giá sự hợp lý như
đã trình bày ở mục trước, lúc này công việc còn lại của nhóm thực hiện dự án là
phải điều khiển và quản lý tiến độ xây dựng. Nhiệm vụ này được thể hiện qua
những công việc dưới đây:
2.4.1 Lựa chọn công việc quản lý
- Trên biểu đồ tiến độ thi công một công trình cụ thể tùy vào quy mô công
trình lớn nhỏ phức tạp hay đơn giản, dân dụng hay công nghiệp mà ở đó được thể
hiện rất nhiều các công việc phải làm nhằm mục đích đưa dự án đến kết thúc. Tuy
nhiên người ta chia nhưng công việc này thành hai loại là công việc găng và công
việc không găng. Công việc găng là những công việc không có thời gian dự trữ tập
hợp những công việc găng theo trình tự trước sau đảm bảo yêu cầu kỹ thuật công
trình thì chúng ta có đường găng.
Khi chọn lựa công việc để quản lý chúng ta cần phải xem xét tính toán đường
găng. Việc tính toán đường găng được thể hiện trên sơ đồ mạng, như vậy trên sơ đồ
mạng đường găng là đường dài nhất đi từ sự kiện khởi công đầu đến sự kiện hoàn
thành công trình. Do đó chiều dài đường găng là thời hạn thi công công trình. Các
công việc thuộc đường găng không có dự trữ thời gian. Khi một công việc thuộc
đường găng vì một lý do nào đó bị chậm trễ thì thời hạn hoàn thành công trình bị
chậm theo. Muốn hoàn thành công trình đúng thời hạn phải tập trung ưu tiên cho
các công việc thuộc đường găng.
Khi muốn rút ngắn thời gian thi công công trình ta phải rút ngắn độ dài
đường găng.
2.4.2 Phương pháp điều khiển
Để nghiên cứu vấn đề này chúng ta nên xem xét bảng kế hoạch tiến độ dưới
dạng sơ đồ mạng CPM (phương pháp đường găng). Sau khi lập xong tiến độ thi
công công trình bằng sơ đồ mạng CPM, tức là qua tất cả 5 bước, ta có một sơ đồ
mạng đã được tính toán hoàn chỉnh. Tính các thông số thời gian, chuyển sơ đồ
mạng lên trục thời gian, vẽ biểu đồ nhân lực. Mục tiêu duy nhất trong giai đoạn điều
48
khiển tiến độ này là tìm cách thực hiện các công việc đã được tính toán trên mạng,
để hoàn thành kế hoạch theo đúng thời hạn đã định. Muốn vậy phải tập trung chỉ
đạo các công việc găng, coi đó là các công việc then chốt cần được ưu tiên về vật
tư, nhân lực và sự giám sát chặt chẽ về kỹ thuật và tổ chức.
Trên thực tế xây dựng, việc hoàn thành các công việc như đã tính toán trên
sơ đồ mạng là điều hết sức lý tưởng. Nhiều lý do sẽ làm cho các công việc bị chậm
lại và cũng có một số công việc được hoàn thành sớm hơn. Lúc này sơ đồ mạng sẽ
bị thay đổi. Vì vậy, sau một tuần hoặc 10 ngày hoặc một tháng, cần thiết phải lập lại
mạng, tính toán lại các thông số, cần thành lập một bộ máy lãnh đạo riêng cho việc
điều khiển tiến độ bằng sơ đồ mạng.
2.4.2.1. Tổ chức bộ máy điều khiển
Ban chỉ huy công trường là người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức
và trực tiếp điều khiển thi công theo phương pháp sơ đồ mạng.
Công việc của ban chỉ huy bao gồm:
-
Trao nhiệm vụ cho phòng kỹ thuật hay kế hoạch làm công việc này.
-
Thành lập nhóm chuyên môn mang tên “Nhóm sơ đồ mạng". Trách nhiệm,
quyền hạn và nội dung công việc của nhóm này phải quy định rõ ràng và chịu sự
lãnh đạo trực tiếp của ban chỉ huy. Muốn chỉ huy được tốt, ban chỉ huy công trường
phải quản lý chặt chẽ nội dung chủ yếu của sơ đồ mạng theo định kỳ (5 ngày, một
tuần, 10 ngày hay 15 ngày). Ban chỉ huy phải cùng “Nhóm sơ đồ mạng” nghiên cứu
những diễn biến về tình hình thi công, biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn nảy
sinh trong quá trình thi công, kịp thời giải quyết những vấn đề thuộc quyền hạn
công trường và đề đạt ngay lên cấp trên những gì không thể giải quyết càng nhanh
càng tốt. Cùng với “Nhóm sơ đồ mạng”, ban chỉ huy phải kiểm tra đôn đốc việc
thực hiện các biện pháp đã đề ra.
[10]
Tổ chức “Nhóm sơ đồ mạng”.
Thành phần:
- Chỉ huy trưởng hoặc một chỉ huy phó phụ trách kỹ thuật là trưởng nhóm
- Một phụ trách phòng kỹ thuật