Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.94 KB, 95 trang )
22
- Xác định tổng số công, số ca máy không chính xác sẽ xảy ra tình trạng
không cung cấp đủ nhân lực, số ca máy và làm kéo dài thời gian thi công. (VD:
công việc này thông thường được xác định từ các định mức ban hành nhưng thực tế
khi tính toán người lập phải dựa vào kinh nghiệm của mình kết hợp với định mức để
tính toán cho chính xác từ đó tổ chức số lao động và ca máy làm việc chính xác,
tránh tình trạng thừa, thiếu nhân lực, máy móc).
- Xác định công nghệ không hợp lý (VD: khi thi công ở vùng sâu xa mà vẫn
chọn công nghệ cọc khoan nhồi …) dẫn đến tình trạng khi thực hiện không cung
cấp được công nghệ.
- Không dự báo, tính hết những bất lợi từ khách quan mang lại (VD: như
điều kiện thời tiết). Yếu tố này thông thường phải bám chắc vào công tác dự báo,
kết hợp với số liệu những năm gần nhất để có được dự báo cụ thể nhất cho công
trình hiện hữu.
- Chọn biện pháp thi công không ưu tiên cơ giới hóa và không tuân theo quy
tắc “Cơ giới hóa đồng bộ”. Trong một kíp máy, chọn máy dùng cho công việc chủ
đạo hay công việc có khối lượng công việc lớn trước, sau đó chọn các máy còn lại.
1.6.2 Công tác điều hành bản kế hoạch tiến độ
Việc điều hành bản KHTĐCT là quá trình tổ chức thực hiện các công việc
trên công trường sao cho những công việc này được bắt đầu hay kết thúc trùng với
thời gian trên bản KHTĐ, phù hợp với yêu cầu trình tự trước sau hay quan hệ logic
giữa chúng. Như vậy, công tác điều hành có ảnh hưởng trực tiếp đến KHTĐCT, nó
thường được biểu hiện bằng những nguyên nhân sau:
- Khi tổ chức thực hiện không tập trung, ưu tiên công việc chủ đạo là công
việc găng và đường găng. Một khi các công việc trên đường găng bị sai lệch kéo
theo sự sai lệch tiến độ công trình của cả dự án.[4]
- Bỏ sót những công việc có khối lượng nhỏ nhưng lại có quan hệ hay ảnh
hưởng lớn đến việc hoàn thành các công việc có khối lượng lớn (VD: Khi xây dựng
nhà dân dụng bỏ qua công tác thi công cầu thang bộ là đầu mối giao thông chủ yếu
giữa các tầng gây chậm tiến độ các công việc lớn).
23
- Tổ chức thực hiện các công việc không nhịp nhàng dẫn đến việc tranh chấp
mặt bằng giữa các tổ đội (VD: sắp xếp công việc tổ copha và tổ cốt thép chồng
chéo, dẫn đến làm chậm tiến độ của hai công việc này).
- Sắp xếp ca máy làm việc không hợp lý dẫn đến tình trạng khi thì hoạt động
không hết công suất khi thì không đủ công suất (VD: trên một công trường có 3 tổ
đội sản xuất: tổ copha, tổ thép và tổ nề nhưng chỉ có một cần tháp, do vậy khi sắp ca
máy phải theo sát tình hình thi công thực tế tại công trường của các tổ đội, khi nào
thì cần copha, khi nào cần thép, khi nào cần vật tư khác và khối lượng từng loại vật
tư là bao nhiêu, tránh tình trạng thiếu cái này thừa cái kia làm chậm tiến độ của các
công việc).
Như vậy, để điều khiển bản KHTĐ chính xác về mặt thời gian thì mọi hoạt
động sản xuất trên công trường phải được thực hiện theo lịch trình đã định trước.
1.6.3 Công tác cấp phát vốn đầu tư và kế hoạch sử dụng vốn
Ảnh hưởng của nguyên nhân này đối với việc thực hiện bản kế hoạch tiến độ
như sau:
- Do kế hoạch ghi vốn hàng năm của chủ đầu tư không theo kịp tiến độ kế
hoạch thi công và tiến độ thực tế tại công trường đối công trình sử dụng ngân sách.
- Chưa huy động được nguồn vốn tự có từ các nhà đầu tư là các cổ đông đối
với công trình không phải công trình sử dụng vốn ngân sách.
Cả hai dạng này đều làm chậm thanh toán theo hợp đồng và theo tiến độ thi
công thực tế. Mặt khác do đặc thù của ngành xây dựng, phần lớn sản phẩm xây
dựng là loại sản phẩm hàng hóa mà người mua phải trả tiền trước cho nhà sản xuất
trong suốt quá trình hình thành sản phẩm tương ứng với khối lượng mà nhà sản xuất
hoàn thành. Do khi chủ đầu tư chậm thanh toán, nhà thầu thiếu vốn để tiếp tục công
việc gây chậm tiến độ xây dựng công trình. Thông thường nguyên nhân này làm
đẩy lùi việc hoàn thành dự án là một khoảng thời gian rất lớn.
24
1.6.4 Các sự cố công trình phát sinh trong quá trình thi công
Theo khoản 29 điều 3 Luật Xây dựng, sự cố công trình là những hư hỏng
vượt qua giới hạn an toàn cho phép làm cho công trình có nguy cơ sụp đổ; đã sập đổ
một phần hoặc toàn bộ công trình; hoặc công trình không sử dụng theo thiết kế.
Như vậy, sự cố công trình được chia thành 4 loại:
- Sự cố sập đổ: bộ phận công trình hoặc toàn bộ công trình.
- Sự cố sai lệch vị trí: Móng sai lệch vị trí, sai sót về hướng, sai lệch vị trí
quá lớn của kết cấu hoặc chi tiết đặt sẵn phải sửa chữa hoặc thay thế.
- Sự cố về biến dạng: Nền móng bị lún quá lớn, kết cấu bị nghiêng, vặn,
võng không thể sử dụng bình thường, phải chi phí sửa chữa.
- Sự cố về công năng: thấm dột, cách âm, cách nhiệt, quá trình công nghệ
không đạt yêu cầu, thẩm mỹ, phản cảm phải sửa chữa thay thế để nâng cao công
năng sử dụng. Thực tế cho thấy, những sự cố xảy ra trong những năm qua đều trong
giai đoạn đang thi công và bắt buộc phải sửa chữa thay thế điều này sẽ làm tăng chi
phí và làm chậm tiến độ của dự án.
1.6.5 Công tác quản lý kỹ thuật và chất lượng công trình
Kỹ thuật, chất lượng ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ thi công của dự án.
Thuật ngữ này thường được sử dụng để miêu tả các quá trình chất lượng về mặt kỹ
thuật được sử dụng nhằm đảm bảo rằng nhiệm vụ kỹ thuật và thiết kế cho công trình
tiến hành theo các điều khoản bắt buộc, các tiêu chuẩn hiện hành hay các yêu cầu
pháp lý khác. Do vậy, điều quan trọng là nhóm thực hiện dự án và các đối tác tham
gia dự án cần có hiểu biết rõ ràng và cập nhật thường xuyên các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến kỹ thuật và quản lý chất lượng công trình. Mỗi lần muốn
sửa chữa sai lầm hay thiếu sót về mặt kỹ thuật trong xây dựng, chúng ta đều phải trả
giá bằng chi phí và thời gian cộng với những phiền hà không đáng có.
Bên cạnh đó, sản phẩm xây dựng là sản phẩm mang tính đặc thù. Sản xuất,
xây lắp là quá trình phải di chuyển thường xuyên để kiến tạo lên công trình. Tính cố
định gắn liền với đất của sản phẩm xây dựng. Sự di chuyển và thay đổi này do: địa
bàn thi công xây thay đổi, mặt bằng sản xuất thay đổi, máy móc, công cụ thi công
25
thay đổi… Việc làm này làm cho chất lượng thi công không đồng nhất, thời gian thi
công và chi phí sản xuất cũng khác nhau đáng kể.
Mặt khác, sản phẩm xây dựng rất đa dạng, sản xuất xây lắp chỉ tạo ra được
một sản phẩm cá biệt, đơn chiếc tại một địa điểm cụ thể. Đòi hỏi nhà thầu và chủ
đầu tư phải xem xét một cách toàn diện để công trình được thi công trong tầm kiểm
soát của các bên liên quan với chất lượng, thời gian, chi phí hợp lý nhất. Sản xuất
xây lắp cần phải thực hiện trong quá trình lộ thiên, chịu ảnh hưởng rất nặng nề do
tác động của thời tiết, khí hậu, môi trường và yếu tố may mắn. Sản phẩm xây dựng
có kích thước rất lớn nên khối lượng công việc là rất lớn. Chính vì các đặc điểm kể
trên, nên việc quản lý kỹ thuật và chất lượng công trình là rất khó, các yếu tố cần
quản lý luôn biến động và rất khó khống chế dẫn đến khó đạt được mục tiêu về mặt
thời gian là tiến độ thi công công trình..
26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Lập KHTĐTC là một trong những nội dung quan trong trong tổ chức quá
trình xây dựng công trình. Nó trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng, giá thành và an
toàn lao động, bảo vệ môi trường trong quá trình thi công .
Lập KHTĐTC theo thời gian gồm có: tổng tiến độ xây dựng, kế hoạch tiến
độ thi công công trình đơn vị và tiến độ thi công phần việc. Do tính chất, mục tiêu
của bản kế hoạch tiến độ khác nhau nên nội dung và chi tiết các công việc cũng
khác nhau. Để tiến hành lập KHTĐTC chúng ta cần phải tuân theo các nguyên tắc
lập kế hoạch tiến độ như đã trình bày trong mục 1.3.4 của luận văn.
Có nhiều hình thức để thể hiện bản KHTĐTC như: phương pháp lập bảng,
phương pháp đồ thị. Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng, nên phương
pháp điều hành quản lý cũng khác nhau. Lựa chọn phương pháp phải căn cứ vào:
đặc điểm công trình xây dựng, trình độ quản lý của chủ dự án, việc cung cấp tài
nguyên, nhân lực công nghệ xây dựng và bố trí kết cấu công trình.
Mục tiêu của bản KHTĐTC là tạo thuận lợi cho việc tổ chức xây dựng để
thực hiện các mục tiêu:
- Bảo đảm công trình hoàn thành đúng thời gian quy định.
- Chất lượng công trình phải đạt được các chỉ tiêu thiết kế, theo đúng các quy
chuẩn thi công hiện hành.
- Giảm thấp giá thành xây dựng, nhà thầu phải có lãi để tái sản xuất và nâng
cao năng lực cạnh tranh…
- Trong quá trình thi công luôn phải an toàn trong sản xuất, an toàn cho các
hạng mục công trình và môi trường được bảo đảm.
27
CHƯƠNG 2. QUẢN LÝ ĐIỀU KHIỂN TIẾN ĐỘ THI CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ
SỰ HỢP LÝ CỦA BẢN TIẾN ĐỘ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
2.1 Mở đầu
Nội dung của công tác quản lý điều khiển KHTĐTC là:
- Nghiên cứu đặc điểm công trình, phân tích đánh giá những nhân tố ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện bản KHTĐTC.
- Đề xuất những giải pháp nếu xảy ra các tình huống để chủ động trong việc
điều chỉnh bản KHTĐTC.
- Tổ chức quản lý, điều hành việc thực hiện bản KHTĐTC, phân công tổ
chức mạng lưới theo dõi bản KHTĐTC cho những cá nhân, đơn vị cụ thể để theo
dõi và chịu trách nhiệm về KHTĐTC. Quy định báo cáo định kỳ với người chỉ huy
hoặc giám đốc dự án để có kế hoạch điều phối phân bổ tài nguyên kịp thời.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá nhân, đơn vị trong việc thực
hiện bản KHTĐTC. Phổ biến rộng rãi đến từng cá nhân, đơn vị có liên quan để có
nhận thức đúng về tính pháp quy của bản KHTĐTC và chủ động tìm biện pháp thực
hiện bản KHTĐTC. Đây là giải pháp huy động được tính sáng tạo làm chủ công
việc của quần chúng.
Để đảm bảo rằng mục tiêu thời gian sẽ được đáp ứng một cách gần với dự
định ban đầu nhất, nội dung chương này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề kể
trên.
2.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện tiến độ xây dựng công
trình và giải pháp bảo đảm thực hiện kế hoạch tiến độ
Ở mục 1.6 của đề tài này đã chỉ ra những nguyên nhân chính không thực
hiện đúng kế hoạch tiến độ xây dựng. Tuy nhiên trong quá trình quản lý xây dựng,
muốn giảm thiểu rủi ro về mặt thời gian không thể không xét đến các nhân tố ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện tiến độ xây dựng công trình. Những nhân tố đó sẽ
được nghiên cứu cụ thể như sau:
28
2.2.1 Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên
- Điều kiện thời tiết: công trình xây dựng có đặc điểm khối lượng công việc
lớn, thường tổ chức thi công sản xuất ngoài trời, thời gian làm việc kéo dài (có khi
đến vài năm). Chính vì vậy việc mưa bão kéo dài nhiều ngày hay nằm ngoài dự báo
có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian hoàn thành công việc cũng như hoàn thành tiến
độ của công trình.[2]
- Điều kiện địa chất và địa chất thủy văn: điều kiện địa chất và địa chất thủy
văn có ảnh hưởng rất lớn và có tính chất quyết định đến kết cấu, cũng như kỹ thuật
xử lý nền móng của công trình. Chính vì vậy nó làm ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ
thi công. Điều kiện địa chất tốt, ổn định thì việc xử lý nền móng là đơn giản. Công
trình thi công trên khu vực có điều kiện địa chất yếu, không đồng nhất, thì việc xử
lý nền móng là vô cùng phức tạp. Nhiều khi chúng ta không lường trước được hết
những tình huống do điều kiện tự nhiên gây ra, làm tốn phí rất nhiều thời gian cho
công tác khắc phục hay giải pháp thi công thích ứng với điều kiện đó. Đồng thời
tiêu tốn rất nhiều chi phí cho khắc phục hậu quả này.
2.2.2 Tài chính và quản lý chi phí
Như ta đã biết thì việc quản lý tài chính và chi phí là một trong ba mục tiêu
chính của dự án xây dựng. Điều này cũng được chứng minh trong thực tế rằng: tài
chính và chi phí là những yếu tố quan trọng nhất và luôn là điều kiện tiên quyết
đóng góp và sự thành công chung của dự án xây dựng.
Khi công trường khởi động, mọi công việc trong kế hoạch được bắt đầu thì
tài chính là toàn bộ các khoản tiền dùng để mua sắm tài sản như máy móc thi công,
dây chuyền công nghệ, nguyên vật liệu, chi trả lương công nhân… Vậy nên để kế
hoạch công việc vận hành theo dự định thì buộc kế hoạch tài chính của công ty hay
công trường phải vận hành theo, thậm chí kế hoạch tài chính phải vận hành trước để
chuẩn bị cho kế hoạch phần việc trong tiến độ được bắt đầu như mua máy móc,
nhập vật tư… Mọi thay đổi hay trục trặc ngoài ý muốn của kế hoạch tài chính đều
có thể phải trả giá bằng thời gian đối với kế hoạch tiến độ thi công của công trình. Ở
một khía cạnh khác thì chủ đầu tư luôn muốn trả ít tiền nhất cho công trình xây