Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.94 KB, 95 trang )
8
Kế hoạch tiến độ thi công là tài liệu quan trọng trong hồ sơ thiết kế công
trình. Nó thể hiện thời gian thực hiện công việc và các mốc khởi công hoàn thành
các công trình đơn vị. Đồng thời là cơ sở để lập kế hoạch cung cấp thiết bị vật tư và
tài chính.
Kế hoạch tiến độ thi công là văn bản để làm căn cứ chỉ đạo quá trình xây
dựng công trình. Lựa chọn phương pháp lập KHTĐTC nào cần phù hợp với khả
năng tổ chức điều hành kế hoạch và thực tế cung cấp nguồn lực thi công.
1.3.2 Các phương pháp lập kế hoạch tiến độ
Để lập kế hoạch và biểu diễn tiến độ thi công các nhà khoa học đã nghiên
cứu ra các phương pháp sau:[9]
-
Phương pháp sơ đồ ngang (Gantt)
Henry Gantt là một kỹ sư người Pháp, vào đầu thế kỷ 19 ông là người đầu
tiên sử dụng sơ đồ ngang trong việc lập kế hoạch tiến độ thi công.
Các nội dung như: Trình tự khởi công, thời gian hoàn thành công việc được
biểu diễn bằng những đường thẳng nằm ngang liên tục hoặc đứt quãng tỷ lệ với lịch
thời gian, người ta gọi đó là kế hoạch tiến độ thi công theo sơ đồ ngang.
Như vậy chỉ cần một hệ tọa độ vuông góc, trong đó trục tung thể hiện công
việc, trục hoành thể hiện thời gian, chúng ta đã diễn tả được một phương pháp tổ
chức sản xuất, một kế hoạch xây dựng tương đối đơn giản, rõ ràng. Chính vì vậy,
phương pháp này được sử dụng đầu tiên để lập kế hoạch tiến độ xây dựng. Ưu điểm
cơ bản của sơ đồ ngang là dùng được cho nhiều đối tượng, dễ lập, dễ điều chỉnh, bổ
sung nên đến nay vẫn được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên nó có nhược điểm là
không thể hiện được những dự án phức tạp, không thấy rõ được mối liên hệ logic
của các công việc dự án.
-
Phương pháp sơ đồ xiên (Cylogram).
Là sơ đồ không những diễn tả tiến trình công việc theo thời gian, mà còn thể
hiện được những mối quan hệ công việc trong không gian. Vì vậy, nó rất thích hợp
để thể hiện dự án tổ chức sản xuất theo dây chuyền, nhằm đảm bảo tính liên tục và
điều hòa, sự phối hợp nhịp nhàng trong sản xuất.
9
Tuy nhiên, sơ đồ xiên cũng như sơ đồ ngang chỉ là một mô hình tĩnh, có tính
toán trước các thông số. Đối với những dự án lớn, phức tạp, sơ đồ xiên không thể
hiện được hết những vấn đề đặt ra, nhất là khi giải quyết những bài toán tối ưu như:
rút ngắn thời hạn xây dựng, hoặc những dự án không tính được thời hạn xây dựng
theo các phương pháp thông thường, mang nhiều yếu tố ngẫu nhiên. Đó cũng là
nhược điểm của sơ đồ này.
-
Phương pháp sơ đồ mạng.
So với sơ đồ ngang và sơ đồ xiên thì sơ đồ mạng có những ưu điểm hơn hẳn.
Sơ đồ mạng được xây dựng trên mô hình toán học hiện đại, đó là lý thuyết đồ thị
với hai yếu tố logic cơ bản là công việc và sự kiện. Trong sơ đồ mạng, các công
việc được thể hiện một cách sinh động cụ thể, không chỉ thấy tên công việc mà còn
thấy cả mối quan hệ công tác. Những mối quan hệ bắt buộc về công nghệ hoặc logic
về tổ chức. Vì vậy không bỏ sót bất kỳ công việc nào và có được kế hoạch tiến độ
khoa học, chính xác.
Sơ đồ mạng là một mô hình toán học động, thể hiện toàn bộ dự án xây dựng
thành một thể thống nhất, chặt chẽ, trong đó thấy rõ vị trí của từng công việc đối với
mục tiêu chung và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các công việc. Nó có thể áp dụng
các phương pháp toán học vào việc phân tích, xây dựng và điều khiển kế hoạch. Vì
vậy, dễ dàng lập được các thuật toán và viết các chương trình cho máy tính điện tử,
kể cả việc tự động hóa thiết kế. Sơ đồ mạng là tên chung của nhiều phương pháp sử
dụng lý thuyết mạng như: phương pháp đường găng CMP (Critical Path Method),
phương pháp kỹ thuật ước lượng và kiểm tra dự án PERT (Program Evaluation and
Review Tecnique), phương pháp sơ đồ mạng công việc MPM (Metra Potential
Method).
Tuy nhiên, hai phương pháp CPM và PERT được sử dụng phổ biến hơn. Hai
phương pháp này cơ bản là giống nhau về hình thức, về trình tự lập mạng, chỉ khác
một điểm là thời gian trong CPM là một đại lượng xác định, có thể tính toán được
từ các định mức lao động, còn thời gian trong PERT không xác định, không có định
10
mức để tính toán mà phải ước lượng, vì vậy mang nhiều yếu tố ngẫu nhiên. Do đó
khi tính toán các thông số thời gian của CPM và PERT có sự khác nhau.
1.3.3 Ý nghĩa và mục tiêu của việc lập kế hoạch tiến độ xây dựng
[6]
Xây dựng dân dụng và công nghiệp cũng như các ngành sản xuất khác
muốn đạt được những mục đích đề ra phải có một kế hoạch sản xuất cụ thể và kế
hoạch này phải được thực hiện theo một trình tự nào đó để hoàn thành các kế hoạch
với thời gian và chi phí tiết kiệm nhất. Điều này hoàn toàn cần thiết cho các công
trình xây dựng hoặc các dự án với rất nhiều các thành phần, công tác khác nhau
cũng như chi phí rất lớn. Một kế hoạch sản xuất được gắn liền với trục thời gian
được gọi là kế hoạch lịch hay tiến độ. Như vậy, tiến độ thực tế chỉ là một kế hoạch
về mặt thời gian.
Công trường xây dựng được tiến hành bởi nhiều tổ chức xây lắp với sự tham
gia của các nhà thầu, người thiết kế, doanh nghiệp cung ứng máy móc thiết bị và
các loại tài nguyên… Xây dựng một công trình là một hệ điều khiển phức tạp rộng
lớn. Sự phức tạp cả về số lượng các thành phần, trạng thái của nó là biến động và
ngẫu nhiên. Vì vậy, trong xây dựng công trình không thể điều khiển chính xác mà
có tính xác suất. Để xây dựng một công trình cần phải có một mô hình khoa học để
điều khiển các quá trình tổ chức và chỉ đạo việc thực hiện các công việc xây dựng.
Mô hình đó chính là tiến độ thi công.
Khi xây dựng một công trình phải tiến hành rất nhiều các quá trình xây lắp
liên quan chặt chẽ với nhau trong một không gian và thời gian nhất định với tài
nguyên có giới hạn. Như vậy, mục đích của lập tiến độ là thành lập một mô hình sản
xuất, trong đó sắp xếp việc thực hiện các công việc sao cho bảo đảm xây dựng công
trình trong thời gian ngắn, giá thành hạ và chất lượng cao.
Tiến độ trong mỗi giai đoạn xây dựng được khai thác nhằm đạt được những
kết quả sau:
Trước khi khởi công
-
Cung cấp một dự trù về mặt thời gian thực hiện của mỗi công tác trong kế
hoạch cũng như thời gian hoàn thành toàn bộ dự án.
11
-
Xác định tốc độ thực hiện kế hoạch.
-
Tạo cơ sở cho người quản lý làm việc với các nhà thầu phụ, cấp dưới …
-
Xác định nhu cầu về nhân lực, vật tư, máy móc thiết bị, tiền bạc ở những
thời điểm xác định.
Trong quá trình xây dựng
Cho phép người quản lý chuẩn bị về tài nguyên, thời điểm then chốt của
-
kế hoạch …
Dự trù được những ảnh hưởng tới kế hoạch khi thay đổi hoặc trì hoãn
công tác.
-
Hỗ trợ được việc sắp xếp, cung cấp tài nguyên.
Sau khi hoàn thành việc xây dựng
-
Cho phép quan sát trở lại và phân tích dự án dựa theo thực tế đã thực hiện.
-
Rút ra được những kinh nghiệm khi dự trù và hoàn thiện hơn những kế
hoạch tương lai.
Hoặc mục đích của việc lập tiến độ cũng có thể được biểu hiện cụ thể như sau:
-
Kết thúc và đưa các hạng mục công trình từng phần cũng như tổng thể
vào hoạt động đúng thời hạn định trước.
-
Sử dụng hợp lý máy móc thiết bị.
-
Giảm thiểu thời gian ứ đọng tài nguyên chưa sử dụng.
-
Lập kế hoạch sử dụng tối ưu về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ xây dựng.
-
Cung cấp kịp thời các giải pháp có hiệu quả để tiến hành thi công công trình.
1.3.4 Nguyên tắc của việc lập kế hoạch tiến độ xây dựng
[6]
Để tiến độ lập ra gần sát với thực tế và yêu cầu của công trình, làm cho
việc xây dựng công trình đạt hiệu quả kinh tế kỹ thuật, chúng ta cần định hướng
theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Ổn định những công việc chuẩn bị kịp thời để tiến hành thi công những
công việc chính: công tác xây dựng tiến hành thuận lợi hay không phụ thuộc rất
nhiều vào công tác chuẩn bị. Thông thường xây dựng công trình người ta chia ra
làm hai phần: phần công tác chuẩn bị và phần xây dựng chính. Phần chuẩn bị bao
12
gồm chuẩn bị mặt bằng và xây dựng lán trại, đường xá tạm thời phục vụ việc thi
công, còn phần xây dựng chính bao gồm xây dựng công trình và đưa công trình vào
hoạt động.
- Đảm bảo thời hạn thi công, một trong những mục đích quan trọng của thiết
kế tổ chức xây dựng là bảo đảm thời hạn pháp lệnh: thời hạn pháp lệnh do Nghị
định của Chính phủ về quản lý xây dựng quy định. Nếu công trình sử dụng vốn
ngân sách thì nhà nước quy định thời hạn thi công, còn công trình do doanh nghiệp
là chủ đầu tư thì doanh nghiệp quy định thời hạn thi công. Dù chủ đầu tư là thành
phần kinh tế nào thì thời hạn xây dựng chỉ được gọi là pháp lệnh khi được ghi trong
hợp đồng giao thầu. Thời hạn hoàn thành đưa công trình vào hoạt động vô cùng
quan trọng. Đôi khi nó quyết định thắng bại của một dự án, vì vậy mọi sự thay đổi
thời hạn thi công đều phải xử lý theo các điều khoản ghi trong hợp đồng (thưởng
khi rút ngắn, phạt khi kéo dài hoặc đình chỉ hợp đồng).
- Sử dụng nhân lực điều hòa trong sản xuất: biểu đồ nhân lực điều hòa khi số
công nhân tăng dần trong thời gian dài và giảm dần khi công trường không có tăng
giảm đột biến. Số lượng công nhân sử dụng không điều hòa, dẫn đến có lúc quân số
tập trung quá cao, có lúc xuống quá thấp làm cho các phụ phí tăng theo và lãng phí
tài nguyên. Bởi các phụ phí đó chi vào việc tuyển dụng, xây dựng nhà cửa lán trại
và việc dịch vụ đời sống hàng ngày… Việc tập trung nhiều người trong thời gian
ngắn gây lãng phí những cơ sở phục vụ cũng như máy móc, vì sử dụng ít không kịp
khấu hao.
- Đưa tiền vốn vào công trình hợp lý: vốn đầu tư là lượng tiền bỏ vào công
trình. Tiền vốn là loại tài nguyên sử dụng một lần, nó chỉ sinh lợi khi công trình hoạt
động. Vì vậy, việc đưa tiền vào công trình là một chỉ tiêu quan trọng của tiến độ.
- Tiên tiến về khoa học: khi quyết định phương án tổ chức – kỹ thuật cho
từng quá trình xây lắp cũng như toàn công trình nói chung, cần phải có sự tính toán,
cân nhắc để áp dụng được các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các phương pháp tổ chức
lao động khoa học, tổ chức sản xuất theo dây chuyền. Các quá trình bộ phận được
xác định và tổ chức một cách khoa học, ấn định khu vực thao tác hợp lý… Mọi
13
quyết định trong kế hoạch tiến độ thi công đều phải là hậu thuẫn cho các hoạt động
trong quá trình hiện thực hóa kế hoạch.
- Kỹ thuật và chất lượng: nội dung của kế hoạch tiến độ thi công phải bao
quát được các yêu cầu về kỹ thuật thi công, các công việc và quá trình thực hiện
chúng phải được xác định đúng theo quy trình, quy phạm kỹ thuật, nhân lực, vật
liệu và máy móc để thực hiện các quá trình phải được bố trí, cung cấp một cách kịp
thời, đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật – công nghệ thi công; thời gian tác nghiệp và
ngừng chờ tạm thời phải phù hợp với tính chất công nghệ, điều kiện kỹ thuật và yêu
cầu kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm trung gian…
- Chính xác và khả thi: các công việc phải được bóc tách một cách đầy đủ,
tính toán chính xác các đặc trưng như khối lượng và nhu cầu về các loại nguồn lực
(lao động, xe, máy…). Các loại định mức kỹ thuật phải thực tế, có tính khả thi, phù
hợp với điều kiện thi công cụ thể cho trường hợp đang xem xét, được vận dụng một
cách chính xác, đáng tin cậy.
- Hiệu quả kinh tế: kế hoạch tiến độ phải mang lại hiệu quả tài chính cụ thể
cho đơn vị xây dựng. Hiệu quả đó đạt được nhờ sử dụng hợp lý nguồn lực, phân
chia và phối hợp tốt quá trình sản xuất, cập nhật các biện pháp tiên tiến và hiệu quả.
Nội dung tính toán hiệu quả của kế hoạch tiến độ thi công phải được thực hiện
thông qua các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật.
- An toàn: tiến độ lập ra phải đảm bảo an toàn cho công trình và an toàn lao
động cho quả trình thi công. Việc phân chia khu vực thi công, trình tự thực hiện các
quá trình xây lắp và giai đoạn thi công, ấn định thời gian gối tiếp… phải tính đến
yêu cầu an toàn không chỉ đối với các kết cấu, bộ phận công trình và công trình nói
chung mà cả an toàn cho lực lượng sản xuất.
- Sơ đồ phải linh động, rõ ràng, dễ hiểu, dễ tác nghiệp. Kế hoạch tiến độ thi
công thường được thể hiện ở dạng sơ đồ. Tùy đối tượng thể hiện hoặc giai đoạn
thiết lập mà có thể sử dụng sơ đồ ngang, sơ đồ mạng lưới cho thích hợp. Song dù sơ
đồ nào thì cũng phải thể hiện một cách mạch lạc nội dung của tiến độ. Không những
thế hình thức và cơ cấu của sơ đồ phải đơn giản, làm sao để nhà quản trị sản xuất dễ
14
theo dõi và dễ thực hiện các tác nghiệp điều chỉnh trong quá trình sản xuất. Vì vậy,
sơ đồ kế hoạch tiến độ thi công cần có tính linh động hay tính thích ứng cao, chỉ
phải sửa chữa ít dù thực tế có bị thay đổi so với kế hoạch ban đầu.
1.3.5 Các căn cứ để lập kế hoạch tiến độ
[8]
Khi lập kế hoạch tiến độ thi công công trình, người lập cần căn cứ vào các
điều kiện và tài liệu sau:
-
Bản vẽ thiết kế kiến trúc và kết cấu, bản vẽ thiết kế thi công công
trình đã được phê duyệt.
-
Các quy định về thời hạn khởi công và hoàn thành công trình, thời
hạn đưa công trình vào sử dụng từng phần (nếu có).
-
Các số liệu về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội của địa
điểm xây dựng công trình.
-
Các số liệu về khảo sát xây dựng.
-
Dự toán thi công công trình và giá thành hợp đồng.
-
Định mức lao động (định mức sản xuất hoặc định mức chung).
-
Các tiêu chuẩn, quy trình quy phạm có liên quan.
-
Phương án thi công, phương án công nghệ của các công tác chủ yếu .
-
Điều kiện tài nguyên sử dụng cho thi công công trình.
-
Sự phối hợp giữa các bên liên quan.
-
Hợp đồng thi công giữa bên A và bên B.
-
Năng lực của nhà thầu và của chủ đầu tư.
-
Ngoài ra còn phải dựa vào điều kiện thời tiết khí hậu vùng miền của
các năm trước năm thi công và dự báo cho năm thi công…
1.3.6 Các bước lập kế hoạch tiến độ
Để có một bản kế hoạch tiến độ xây dựng thực sự có chất lượng, người lập phải
bám sát các nguyên tắc lập kế hoạch tiến độ thi công như đã trình bày ở mục 1.3.2
và phải thực hiện theo trình tự các bước sau:
1. Phân tích công nghệ xây dựng công trình.
2. Lập biểu danh mục công việc sẽ tiến hành xây lắp công trình.
15
3. Xác định khối lượng công việc theo danh mục trong biểu.
4. Chọn biện pháp kỹ thuật thi công cho các công việc.
5. Xác định chi phí lao động (ngày công) và máy móc (ca máy) thực hiện công
việc.
6. Xác định thời gian thi công và chi phí tài nguyên.
7. Lập tiến độ ban đầu.
8. Xác định chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật.
9. So sánh các chỉ tiêu của tiến độ vừa lập với chỉ tiêu đề ra.
10. Tối ưu tiến độ theo các chỉ số ưu tiên.
11. Tiến độ chấp nhận.
12. Lập biểu nhu cầu tài nguyên.
Theo sơ đồ khối hình 1.4, các bước thực hiện diễn ra theo một trình tự logic.
Nội dung thực hiện trình tự các bước đã được giới thiệu rất nhiều bởi các tài liệu
của bộ môn tổ chức thi công như: Tổ chức sản xuất xây dựng (PGS TS Lê Kiều,
NXB Xây dựng), Tổ chức thi công xây dựng (TS Lê Hồng Thái, NXB Xây dựng…)
16
Hình 1.4 - Các bước thực hiện lập kế hoạch tiến độ xây dựng[8]
Bắt đầu
4
1
Phân tích công nghệ thi công
2
Lập biểu danh mục công việc
3
Xác định khối lượng công việc
4
Chọn biện pháp kỹ thuật
2
5
Xác định chi phí nhân lực máy móc
1
6
Xác định thời gian thi công tiêu thụ tài nguyên
7
Lập tiến độ ban đầu
8
Xác định chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
9
So sánh với chỉ tiêu đề ra
3
Không đạt
Đạt
10
Tối ưu tiến độ
11
Tiến độ pháp lệnh
12
Lập biểu đồ nhu cầu tài nguyên
Kết thúc
17
1.3.7 Các loại kế hoạch tiến độ
Kế hoạch tiến độ thi công có thể được phân loại theo nhiều cách. Căn cứ vào
quy mô, nội dung công việc ở các giai đoạn thiết kế thì có những loại kế hoạch sau:
+ Kế hoạch tiến độ thi công phần việc,
+ Kế hoạch tiến độ thi công công trình đơn vị,
+ Tổng tiến độ thi công.
Các kế hoạch tiến độ theo nội dung công việc căn cứ vào tính chất, mục đích
phục vụ:
+ Kế hoạch tiến độ khảo sát địa hình, địa chất,
+ Kế hoạch tiến độ cung cấp vật tư thiết bị,
+ Kế hoạch tiến độ cung ứng nhân lực,
+ Kế hoạch tiến độ cấp phát vốn.
1.4 Xác định thời gian hoàn thành công việc
1.4.1 Khái niệm về công việc
Công việc là danh từ chỉ đối tượng cần phải có thời gian và nguồn lực thực
hiện. Tùy theo loại kế hoạch tiến độ là phần việc hay công trình đơn vị, hoặc tổng
tiến độ thi công mà công việc được xác định. Mỗi loại kế hoạch tiến độ mà danh từ
“công việc” có giá trị khối lượng, thời gian thực hiện, mức độ chi tiết có khác nhau.
Ví dụ: trong kế hoạch tổng tiến độ thi công thì có các công việc: công việc
chuẩn bị thi công, công việc làm đường vận chuyển, công việc đắp đê quai, công
việc xây dựng công trình dẫn dòng, công việc thi công đập chính, cống lấy nước,
tràn xả lũ,…
Trong bản kế hoạch tiến độ thi công công trình đơn vị cống lấy nước, có các
công việc sau: công việc bóc lớp phong hóa, nổ mìn đào đá, đổ móng cống, đổ bê
tông đoạn 1, đổ bê tông đoạn 2,… Đổ bê tông phần cửa vào, đổ bê tông phần tiêu
năng cửa ra, đổ bê tông tháp van và công tác lắp đặt thiết bị đóng mở.
1.4.2 Xác định thời gian hoàn thành công việc
Tùy theo bản kế hoạch tiến độ thi công và mức độ phân chia công việc mà có
các cách xác định khác nhau. Đối với lập tổng kế hoạch tiến độ thi công thì thời