1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Xuất nhập khẩu >

CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HĨA CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.48 KB, 83 trang )


đĩng vai trị “ như một chiếc neo giữ thăng bằng đảm bảo độ an tồn cao, ổn

định về chính trị - xã hội trong quá trình cải cách ở Trung Quốc”.

1.2. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc cĩ sự thay đổi qua

từng giai đoạn, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế

Cho đến tận đầu những năm 90, các biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất

khẩu là giảm dần mức độ kiểm sốt hoạt động xuất khẩu, tạo động lực khuyến

khích đối với xuất khẩu thơng qua các biện pháp điều chỉnh tỷ giá, ban hành

chế độ giữ lại ngoại tệ, thiết lập chế độ tỷ giá kép, áp dụng chế độ khốn hợp

đồng ngoại thương và một loạt các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu khác, kể cả

việc sử dụng ngân sách nhà nước để bù lỗ xuất khẩu. Những biện pháp này

được áp dụng khơng nhằm mục đích tạo ra sự thiên vị vượt trội đối với hoạt

động xuất khẩu mà chủ yếu nhằm triệt tiêu bớt thiên hướng chống lại xuất

khẩu do mức bảo hộ cao đối với sản xuất trong nước và tình trạng đồng nội tệ

được định giá cao tạo ra. Cĩ thể nĩi đây là giai đoạn bộc lộ rõ nét nhất tính

tiệm tiến, thử nghiệm và thực dụng trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu của

Trung Quốc. Đối với Trung Quốc tại thời điểm đĩ cải cách cục bộ, cĩ tính thử

nghiệm là nhằm hướng tới sự cải thiện chứ khơng phải sự hồn thiện. Vì vậy,

các biện pháp chính sách được thực hiện theo phương châm từ dễ đến khĩ,

vừa làm vừa rút kinh nghiệm, sai đâu sửa đấy, cải cách thí điểm đến cải cách

đại trà, cải cách từ phạm vi hẹp đến cải cách tren phạm vi rộng hơn. Từng

biện pháp cụ thể được đưa ra tùy thuộc vào những vấn đề phát sinh trên thực

tế và kết quả thực hiện các biện pháp trước đĩ. Con đường cải cách mà Trung

Quốc lựa chọn là hồn tồn dễ hiểu vì Trung Quốc là một nền kinh tế cĩ quy mơ

lớn vì vậy bất kì một sai lầm nào trong cải cách đều phải trả giá rất đắt, vì vậy

Trung Quốc đã hết sức thận trọng và cân nhắc kĩ lưỡng trước khi đưa ra bất kì

một quyết định.

Việc Trung Quốc lựa chọn phương pháp cải cách tiệm tiến khơng cĩ

nghĩa là nước này hồn tồn khơng cĩ những định hướng mục tiêu cải cách,



55



khơng cĩ tầm nhìn xa cĩ tính chiến lược trong tương lai. Kể từ khi đệ đơn xin

ra nhập GATT/WTO vào năm 1985, bên cạnh việc tiếp tục những biện pháp

hỗ trợ xuất khẩu, Trung Quốc bắt đầu cĩ những nỗ lực cải cách theo định

hướng thị trường và tự do hĩa thương mại. Việc Trung Quốc giảm dần quy

mơ trợ cấp xuất khẩu, tiến tới xĩa bỏ hình thức hỗ trợ xuất khẩu này vào năm

1991, và bắt đầu những nỗ lực cắt giảm thuế quan nhập khẩu từ năm 1992 cho

thấy Trung Quốc đã cĩ tầm nhìn chiến lược về những cải cách theo định

hướng thị trường, về vai trị của tự do hĩa thương mại nĩi chung, và tự do hĩa

nhập khẩu nĩi riêng như là giải pháp dài hạn để thúc đẩy xuất khẩu. Từ năm

1994, trước yêu cầu cấp bách của cải cách trong nước và áp lực đẩy nhanh

quá trình đàm phán gia nhập WTO, Trung Quốc đã thực hiện những biện

pháp cải cách quan trọng nhất theo định hướng thị trường kể từ khi cơng cuộc

cải cách được khởi xướng vào cuối thập kỉ 70. Để thúc đẩy xuất khẩu Trung

Quốc chuyển sang áp dụng các chính sách hồn thuế xuất khẩu bảo hiểm và

bảo lãnh xuất khẩu, và đẩy mạnh hơn nữa quá trình tự do hĩa nhập khẩu. Đây

là những chính sách phù hợp với tập quán và thơng lệ quốc tế được sử dụng

phổ biến ở các nước cơng nghiệp phát triển và nhiều nước khác trên thế giới.

1.3. Áp dụng chính sách thích hợp để khơi thơng nguồn lực đất nước,

hình thành và phát triển các ngành xuất khẩu

Một trong những bài học quý báu nhất rút ra từ chính sách cải cách mở

cửa nĩi chung và thúc đẩy xuất khẩu nĩi riêng của Trung Quốc là phá bỏ sự

cứng nhắc trong cơ chế phân bổ nguồn lực, tạo điều kiện để những nguồn lực

trong một thời gian dài khơng được sử dụng hoặc sử dụng lãng phí được

chuyển đến những ngành mà đất nước cĩ lợi thế so sánh (ví dụ như dệt may và

các ngành cơng nghiệp nhẹ khác). Quá trình di chuyển lao động ở Trung

Quốc được bắt đầu từ cuối những năm 70 và cho đến nay vẫn đang tiếp tục

diễn ra. Để hướng nguồn lực tập trung vào những ngành mà Trung Quốc cĩ

lợi thế so sánh quốc gia này đã áp dụng hàng loạt các chính sách như: chính



56



sách định hướng vùng và ngành mục tiêu, phát triển hình thái gia cơng xuất

khẩu, thu hút vốn FDI vào các ngành định hướng xuất khẩu sử dụng nhiều lao

động. Từ trước tới nay, thế giới vẫn biết đên Trung Quốc như một quốc gia đa

dạng hĩa trong các mặt hàng xuất khẩu điều đĩ làm cho nhiều người dễ nhầm

tưởng Trung Quốc phát triển theo chiến lược đa dạng hĩa các mặt hàng xuất

khẩu mà khơng chú trọng đặc biệt tới ngành nào. Nhưng nếu nghiên cứu một

cách kĩ lưỡng thì quá trình phát triển xuất khẩu của Trung Quốc khơng nằm

ngồi quy luật chung của thế giới đĩ là việc tăng dần hàm lượng chất xám và

khoa học cơng nghệ trong các mặt hàng xuất khẩu, cĩ như vậy mới đảm bảo

tính cạnh tranh và phát triển bền vững cho xuất khẩu.

1.4. Áp dụng những chính sách thích hợp để tạo lập và phát triển những

lợi thế cạnh tranh mới, dẫn đến sự chuyển dịch nhanh chĩng cơ cấu xuất

khẩu

Trung Quốc là một quốc gia cĩ nguồn lao động dồi dào nên chính sách

thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc trước hết hướng trọng tâm cho các ngành

sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, và các ngành cơng nghiệp nhẹ

khác, rồi sau đĩ cĩ sự chuyển dần sang các mặt hàng cĩ hàm lượng vốn, cơng

nghệ và giá trị gia tăng cao hơn như điện, điện tử, máy mĩc thiết bị, viễn

thơng và các sản phẩm cơng nghệ mới cơng nghệ cao khác.

Để đạt được mục tiêu nĩi trên, Trung Quốc áp dụng các biện pháp hỗ

trợ các ngành nĩi trên trong khuơn khổ chính sách định hướng ngành mục

tiêu, thực hiện chính sách nhằm tạo lập và phát triển năng lực cơng nghệ quốc

gia, triển khai các chương trình khoa học cơng nghệ trong nước kết hợp với

nhập khẩu cơng nghệ tiên tiến của nước ngồi. Hơn nữa, việc nhập khẩu cơng

nghệ của Trung Quốc khơng chỉ dừng lại ở hình thức nhập khẩu máy mĩc

thiết bị mà cịn chuyển hướng sang hình thức chuyển giao Li-xăng, tư vấn kĩ

thuật , thiết kế hoặc tổ chức sản xuất phối hợp. Nhập khẩu máy mĩc kĩ thuật

chỉ phù hợp trong thời gian đầu vì nĩ nhanh chĩng khắc phục tình trạng năng



57



lực sản xuất yếu kém hiện thời, nhưng trong dài hạn việc tiếp nhận cơng nghệ

qua hình thức Li-xăng mới là biện pháp hiệu quả nhất để hình thành và phát

triển năng lực cơng nghệ quốc gia. Hình thức tiếp nhận Li- xăng cơng nghệ

tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc lựa chọn cơng nghệ, cũng như việc kết

hợp cơng nghệ nước ngồi với cơng nghệ cĩ sẵn trong nước.

Một kênh quan trọng mà Trung Quốc tận dụng khai thác để tiếp nhận

cơng nghệ của nước ngaịi là thu hút vốn đàu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đặc

biệt là đầu tư trực tiếp của các cơng ty đa quốc gia trên thế giới. Những biện

pháp khuyến khích của Trung Quốc từ giữa những năm 90 đã cĩ tác dụng

mạnh mẽ trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi, đặc biệt các doanh

nghiệp 100% vốn nước ngồi. Chính các doanh nghiệp này ngày càng đĩng vai

trị quyết định đối với sự tăng trưởng xuất khẩu nĩi chung và tăng trưởng xuất

khẩu các mặt hàng chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm cơng nghệ mới cơng

nghệ cao của Trung Quốc.

1.5. Trung Quốc đã khai thác một cách thích hợp vai trị của tỷ giá hối đối

và các biện pháp địn bẩy khuyến khích tài chính để thúc đẩy xuất khẩu

Việc Trung Quốc xĩa bỏ hệ thống tỷ giá kép và thống nhất các mức tỷ

giá vào đầu năm 1994 cĩ thể được coi là cú phá giá ngoạn mục đồng nội tệ,

điển hình cho “nghệ thuật chớp thời cơ” của Trung Quốc trong viẹc nâng cao

sức cạnh tranh cho hàng hố xuất khẩu của mình đồng thời giúp Trung Quốc

đẩy mạnh cắt giảm thuế nhập khẩu chuẩn bị gia nhập WTO, trong khi vẫn bảo

vệ được sản xuất trong nước. Việc Trung Quốc khơng phá giá đồng nhân dân

tệ sau cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á đã khiến thế giới cĩ cái nhìn thiện

cảm đối với Trung Quốc, đồng thời cho thấy Trung Quốc cĩ khả năng đối phĩ

với cơn bão tài chính mà khơng cần tới biện pháp phá giá.

Tính thực dụng của chính sách tỷ giá ở Trung Quốc sau khi nước này

thực hiện những cải cách tồn diện theo định hướng thị trường vào năm 1994

cịn được khẳng định thêm là thực tế trong những năm gần đây, bất chấp xu

58



hướng giảm giá của đồng nhân dân tệ và áp lực quốc tế địi Trung Quốc phải

nâng giá đồng nhân dân tệ của mình, Trung Quốc vẫn duy trì chính sách ổn

định đồng nhân dân tệ với lí do chưa hội đủ những yếu tố cần thiết để diều

chỉnh tỷ giá. Biện pháp nâng giá dồng nhân dân tệ của Trung Quốc ngày

21/7/2005 vừa qua cĩ thể được coi như là mũi tên trúng nhiều mục tiêu. Thứ

nhất, biện pháp này nhằm giảm áp lực từ phía Mỹ và các nước cơng nghiệp

phát triển khác địi Trung Quốc phải nâng giá và tiến tới thả nổi dồng nhân

dân tệ. Thứ hai, mặ dù nâng giá dồng nhân dân tệ Trung Quốc vẫn tạo cho

mình một “ hành lang” an tồn cho việc điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết nhằm

đạt tới các mục tiêu riêng của mình.

Ngồi chính sách tỷ giá, cho đến những năm đầu của thập kỉ 90, Trung

Quốc cịn sử dụng một loạt các địn bẩy khuyến khích tài chính khác để hỗ trợ

xuất khẩu như trợ cấp trực tiếp, miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các nguyên

vật liệu và bán thành phẩm sử dụng dể sản xuất hàng xuất khẩu, hồn thuế xuất

khẩu, cung cấp tín dụng xuất khẩu, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với các khoản

cho vay bằng nội tệ dùng cho những người sản xuất hàng xuất khẩu, trợ cấp

cho các hoạt động vận tải, bảo quản và bảo hiểm hàng xuất khẩu. Tuy nhiên,

từ khi nỗ lực gia nhập GATT/WTO Trung Quốc đã giảm dần quy mơ và tiến

tới xĩa bỏ hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp vào năm 1991, và cho đến

giữa những năm 90 thì phần lớn các biện pháp địn bẩy khuyến khích khác

cũng được bãi bỏ. Cĩ thể nĩi các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu nĩi trên đã được

Trung Quốc khai thác một cách triệt để, và chúng cĩ vai trị rất quan trọng

trong việc giúp cho hàng hố Trung Quốc tìm đợc chỗ đứng và cĩ vị thế vững

chắc nhất định trên thị trường thế giới. Từ giữa thập kỉ 90 trở đi, chính sách

hỗ trợ xuất khẩu của Trung Quốc chủ yếu dựa vào những biện pháp được sử

dụng phổ biến trên thế giới và phù hợp với thơng lệ quốc tế hiện đại như thực

hiện hồn hoặc miễn giảm thuế nhập khẩu và thuế VAT, cung cấp tín dụng



59



xuất khẩu và dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh cho nhà xuất khẩu và các dịch vụ hỗ

trợ cơng cộng khác.

1.6. Thành cơng trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc là

do cĩ sự phối hợp đúng đắn, linh hoạt và cĩ hiệu quả các cơng cụ chính

sách thúc đấy xuất khẩu, gắn chính sách thúc đẩy xuất khẩu với những

cải cách tồn diện trong nền kinh tế

Trong mỗi một quốc gia chính sách thúc đẩy xuất khẩu chỉ là một bộ

phận trong chính sách phát triển kinh tế xã hội nĩi chung và chính sách thương

mại quốc tế nĩi riêng nhằm thực hiện mục tiêu chung là phát triển kinh tế đât

nước, vì vậy chính sách thúc đẩy xuất khẩu muốn đạt hiểu quả cao phải kết

hợp chặt chẽ với các chính sách khác. Trung Quốc đã thành cơng trong việc

phối kết hợp các biện pháp chính sách khác nhau để đạt tới kết quả tốt nhất.

Mỗi một chính sách khi áp dụng cĩ thể mang lại những kết quả tích cực nhưng

đồng thời làm nảy sinh những vấn đề mới cĩ thể làm triệt tiêu những kết quả

tích cực đĩ, hoặc hiệu lực của một chính sách cĩ thể được phát huy tố hơn nếu

nĩ phối kết hợp với các chính sách khác. Sự kết hợp cải cách chính sách

thương mại và cải cách trong lĩnh vực ngoại hối và tỷ giá hối đối của Trung

Quốc là một ví dụ điển hình. những biện pháp cải cách trong các lĩnh vực này

thường đi kèm với nhau bổ sung hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn việc cho phép

các doanh nghiệp và các địa phương được giữ lại một phần thu nhập ngoại tệ

từ xuất khẩu và áp dụng chế độ tỷ giá thanh tốn nội bộ là những biện pháp

nhằm khĩ khăn nảy sinh đối với những nhà xuất khẩu do chính phủ trung

ương hạn chế dần việc bù lỗ xuất khẩu. Bên cạnh đĩ, việc ban hành chế độ giữ

lại ngoại tệ cĩ tác dụng tạo động lực khuyến khích đối với nhà xuất khẩu,

nhưng mức độ khuyến khích được tăng lên cùng với việc cho phép các doanh

nghiệp chuyển nhượng ngoại tệ đĩ tại các trung tâm hốn đổi ngoại tệ.



60



Ngồi ra, những biện pháp cải cách trong lĩnh vực đối ngoại ở Trung

Quốc được thực hiện đồng thời với những cải cách tồn diện khác trong nền

kinh tế như cải cách thể chế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách lĩnh

vực tài chính- ngân hàng và thuế, đầu tư vào giáo dục và phát triển cơ sở hạ

tầng. Những cải cách này cĩ tác dụng tăng cường năng lực điều hành cả về vĩ

mơ và vi mơ trong nền kinh tế, nâng cao hiệu quả của quá trình phân bổ

nguồn lực, từ đĩ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế nĩi chung và hoạt

động xuất khẩu nĩi riêng. Cĩ thể nĩi ở Trung Quốc những cải cách trong nước

luơn đi kèm những cải cách trong lĩnh vực đối ngoại, từ đĩ giúp cho chính

sách mở cửa nĩi chung và thúc đẩy xuất khẩu nĩi riêng ở Trung Quốc được

thực hiện một cách cĩ hiệu quả và đạt được những thành tựu to lớn.

1.7. Trung Quốc đã khai thác và phát huy triệt để vai trị của FDI để thúc

đẩy xuất khẩu, sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu

Trung Quốc chủ trương dựa vào vốn FDI để phục vụ mục tiêu mở rộng

xuất khẩu. Sau một thời gian dài cĩ sự nhận thức hạn chế về vốn FDI vì

những lí do lịch sử và chính trị, từ chỗ đánh đồng vốn đầu tư nước ngồi với

chủ nghĩa thực dân đế quốc và sự bĩc lột của phương tây , Trung Quốc đã bắt

đầu cĩ được nhận thức đúng đắn về vai trị của nguồn vốn FDI, coi nguồn vốn

FDI là chiếc “ chìa khĩa vàng”, là động lực quan trọng để thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế. Thu hút FDI là giải pháp quan trọng để Trung

Quốc tiếp cận nguồn vốn, bí quyết kĩ thuật và cơng nghệ tiên tiến của nước

ngồi, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khu vực xuất khẩu, và

đẩy mạnh thâm nhập thị trường thế giới. Trên cơ sở nhận thức đĩ, Trung Quốc

bắt đầu xĩa bỏ những rào cản đối với FDI từ cuối năm 1978, đồng thời thực

thi hàng loạt biện pháp chính sách nhằm thu hút FDI với quy mơ lớn.

Cùng với quá trình hình thành khuơn khổ pháp lí điều tiết FDI .theo

hướng ngày càng hồn thiện và minh bạch, Trung Quốc cịn cĩ những bước đi

đúng đắn nhằm định hướng FDI vào những ngành mà Trung Quốc cĩ lợi thế



61



so sánh và lợi thế cạnh tranh, tranh thủ khai thác yếu tố địa lí, dân tộc để đẩy

mạnh thu hút dịng vơn FDI định hướng xuất khẩu. Sau giai đoạn thu hút FDI

cĩ tính chất thử nghiệm, từ giữa những năm 1980 trở đi việc thu hút FDI của

Trung Quốc chủ yếu phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm

chế tạo, từ các nguồn cung cấp FDI chủ yếu từ Hồng Kơng, Đài Loan.Cùng

với việc tiếp tục khai thác FDI để gia tăng các mặt hàng chế tạo sử dụng nhiều

lao động nĩi chung, từ năm 1995 Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh việc gắn FDI

với các mục tiêu cơng nghiệp với việc ban hành và sửa đổi nhiều lần “ Quy

định tạm thời về định hướng đầu tư nước ngồi”, theo đĩ nguồn vốn FDI được

khuyến khích thu hút vào các ngành định hướng xuất khẩu, cơng nghệ mới,

cơng nghệ cao.

1.8. Trung Quốc thành cơng trong việc khai thác các yếu tố thuận lợi,

những cơ hội lớn trong nền kinh tế thế giới để đẩy mạnh thu hút FDI,

phục vụ cho mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu

Trung Quốc là một ví dụ điển hình về sự nhạy bén trong việc nắm bắt

và khai thác những cơ hội lớn do biến động trong nền kinh tế thế giới mang

lại từ đĩ cĩ những đối sách thích hợp để thực hiện mục tiêu thúc đaayr xuất

khẩu. Từ đầu những năm 1980 Hồng Kơng và Đài Loan bắt đầu mất đi lợi thế

cạnh tranh trong sản xuất những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động

do chi phí lao động và đất đai tăng cao, việc tái cơ cấu trở nên hết sức cần

thiết để tìm ra một hướng phát triển mới. Ngồi ra, các nền kinh tế này cịn cĩ

nhu cầu dịch chuyển lên phía trên bậc thang cơng nghệ để tiếp cận với những

sản phẩm hoặc dịch vụ cĩ giá trị gia tăng cao hơn. Trong bối cảnh đĩ. Trung

Quốc đã nhanh chĩng tận dụng cơ hội “trời cho” này để đẩy mạnh cải cách

trong nước, mở cửa khu vực duyên hải phía Đơng Nam nhằm thu hút với quy

mơ lớn vốn đầu tư định hướng xuất khẩu từ các nền kinh tế nĩi trên. Việc

Trung Quốc tuyên bố mở cửa 14 thành phố ven biển vào năm 1984 và 3 khu

vực đồng bằng chính vào năm 1985 được coi như tín hiệu đèn xanh đối với



62



các nhà đầu tư Hồng Kơng và Đài Loan và các nhà đầu tư khác. Tiếp đến là

những cải cách cĩ tính chất đột phá trong việc cải thiện mơi trường đầu tư và

hình thành một cách cơ bản khuơn khổ pháp lí điều tiết các loại hình FDI chủ

yếu ở Trung Quốc trong nửa sau của thập kỉ 80. Những biện pháp cải cách đã

tạo nên lực hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư từ Hồng Kơng và Đài Loan,

khởi đầu cho sự bùng nổ của dịng vốn đầu tư định hướng xuất khẩu từ các

nền kinh tế này vào Trung Quốc.

Cũng từ những năm 80 của thế kỉ 20, trong xu thế quốc tế hĩa, tồn cầu

hĩa diễn ra sơi động, các cơng ty đa quốc gia cĩ xu hướng phân tán các hoạt

động tạo giá trị tới những địa điểm khác nhau trên thế giới để khai thác các

yếu tố đầu vào tối ưu nhất. Trung Quốc đã nắm bắt cơ hội này để xác lập cho

mình vị trí vững chắc trong mạng lưới sản xuất tồn cầu của các cơng ty đa

quốc gia. Với những lợi thế của mình, Trung Quốc đã trở thành địa điểm lí

tưởng để nhiều cơng ty nước ngồi thiết lập các cơ sở sản xuất hàng chế biến

phục vụ thị trường thế giới. Việc áp dụng và khuyến khích hình thức gia cơng

xuất khẩu là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự tịch tụ nhanh

chĩng hoạt động sản xuất chế biến ở Trung Quốc từ thập kỉ 90 trở đi. Đối với

cơng ty nước ngồi, đặc biệt là cơng ty đa quốc gia , gia cơng xuất khẩu được

coi là phương thức cĩ hiệu quả ít rủi ro, và rất thích hợp cho việc tổ chức hoạt

động sản xuất chế biến ở Trung Quốc. Đổi lại hình thức gia cơng xuất khẩu

giúp Trung Quốc thu hút được vốn đầu tư, tiếp cận được cơng nghệ, trình độ

quản lí tiên tiến của nước ngồi, đồng thời khai thác được những lợi thế đặc

biệt về vị trí địa lí và nguồn lao động rẻ ở những khu vực duyên hải đơng nam

đất nước. Kết quả là gia cơng xuất khẩu đã trở thành hình thức thương mại

chủ lực của Trung Quốc và kể từ năm 1996 tới nay gia cơng xuất khẩu thường

chiếm tới hơn một nửa giá trị xuất khẩu của Trung Quốc, và các doanh nghiệp

cĩ vốn đầu tư nước ngồi chiếm khoảng 3/4 tổng giá trị gia cơng xuất khẩu của

cả nước.



63



2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT

KHẨU CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM.

2.1. Khái quát tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua

Trong thời gian qua xuất khẩu của nước ta đã thu được những kết quả

quan trọng, trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao

trong thời gian qua. Qua gần 20 năm đổi mới, thương mại Việt Nam đã cĩ

bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Thị trường xuất khẩu

được mở rộng cùng với sự gia tăng về quy mơ, chủng loại hàng hĩa và các

loại hình thị trường. Trong thời kì 1990- 2000, xuất khẩu của Việt nam tăng

trưởng đạt trên 20 %/năm, năm 2003, tăng 20,8% và năm 2004 là 28,9%, tốc

độ này cao hơn gấp nhiều lần tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Tính riêng cho năm 2004, xuất khẩu cả nước đạt mức kỉ lục, trên 26 tỉ

USD, xuất khẩu hàng hĩa trung bình mỗi tháng bình quân đạt mức trung bình

2 tỉ USD tăng 28,9% so với cùng kì năm trước. Nhiều mặt hàng đạt tốc độ

tăng trưởng cao như dầu thơ, than đá, sản phẩm gỗ, dây điện, cáp điện. Tính

chung trong 4 năm (2000-2004), mức xuất khẩu của cả nước đạt gần 80 tỉ

USD, như vậy tổng kim ngạch XNK hàng năm của nước ta đã vượt tổng thu

nhập quốc dân nội địa, tốc độ tăng xuất khẩu luơn cao hơn tốc độ tăng trưởng

của nền kinh tế.

Thực tế 20 năm đổi mới vừa qua cho thấy xuất khẩu đã trở thành nhân

tố quan trọng đĩng gĩp vào tăng trưởng kinh tế, gĩp phần giải quyết việc làm

tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư, thúc đẩy phân cơng lao đơng xã hội.

Mặt khác, thơng qua hoạt động xuất nhập khẩu chúng ta cĩ điều kiện tiếp cận

với các cơng nghệ tiên tiến, hiện đại của các nước, cĩ thể nhập nguyên vật liệu

và các yếu tố đầu vào cần thiết khác để duy trì hoạt động của các doanh

nghiệp, gĩp phần làm cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền



64



kinh tế khu vực và thế giới.Cĩ thể khái quát những kết quả đạt được trong hoạt

động xuất khẩu của nước ta thời gian qua như sau:

Trước hết, cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng đần

tỉ trọng của hàng cơng nghiệp, dịch vụ, hàng chế biến, giảm dần tỉ lệ hàng

xuất khẩu thơ, sơ chế. Nhiều sản phẩm đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ

USD như dầu thơ, dệt may, thủy sản, giày dép; lần đầu tiên các sản phẩm như

gỗ, hàng điện tử đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỉ USD.

Cơ cấu thị trường đã chuyển dịch theo hướng tích cực, trước đây tập

trung chủ yếu ở các nước ASEAN nay mở rộng sang các nước như Hoa Kỳ,

EU, Nhật Bản. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Châu Á từ

60,5% năm 2001 xuống cịn 47,7% năm 2004. Hiện nay, Hoa Kỳ là thị trường

chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

Nhờ cĩ cơ chế chính sách thương mại ngày càng thơng thống, đang

được bổ sung hồn thiện theo các quy định quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu

đã thu hút được đơng đảo các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

tham gia; ngồi các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân trong

nước và nhất là các doanh nghiệp cĩ vốn đầu tư nước ngồi đã đĩng gĩp quan

trọng vào mức tăng trưởng xuất khẩu nĩi chung của cả nước.

Tại kì họp thứ 7, Quốc hội khĩa IX đã thơng qua Luật Thương mại (sửa

đổi), đảm bảo thể chế hĩa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đĩ

xây dựng chính sách thương mại, pháp luật thương mại, tạo hành lang pháp lí

cho phát triển thị trường hàng hĩa và dịch vụ là vấn đề trọng tâm. Luật

Thương mại (sửa đổi) đã điều chỉnh các hoạt động thương mại theo 5 nguyên

tắc phù hợp với điều kiện mới của thương mại trong kinh tế thị trường và hội

nhập kinh tế quốc tế.



65



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

×