1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 131 trang )


5

+ Theo nghĩa rộng: Kinh tế nông nghiệp là tổng thể kinh tế bao gồm các ngành

kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.

+ Theo nghĩa hẹp: Kinh tế nông nghiệp là tổng thể kinh tế bao gồm kinh tế

ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:

+ Là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ về mặt lượng giữa các thành phần, các yếu tố và

các bộ phận hợp thành nền kinh tế nông nghiệp theo xu hướng nhất định.

+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

cũng có thể diễn ra theo 2 cách: tự phát và tự giác

* Chuyển dịch tự phát: là quá trình kinh tế nông nghiệp chuyển dịch không theo

một xu hướng mục tiêu định trước mà là sự chuyển dịch phụ thuộc vào tác động của

các qui luật và điều kiện kinh tế khách quan.

* Chuyển dịch tự giác: là sự chuyển dich theo một xu hướng, về lượng và chất;

là sự chuyển dịch có sự can thiệp, tác động của con người nhằm thúc đẩy, định hướng

cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo xu hướng có lợi và hiệu quả hơn.

b. Kinh tế nông thôn:

Kinh tế nông thôn là một bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân, là tổng thể

các ngành kinh tế trong khu vực nông thôn gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,

ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ có quan hệ chặt chẽ với nhau về chất lượng và

theo những tỷ lệ nhất định về số lượng.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn:là một quá trình biến đổi thành phần và

quan hệ tỷ lệ các ngành kinh tế nông nghiệp và dịch vụ từ trạng thái này sang trạng

thái khác theo những xu hướng nhất định.

1.1.1.2. Vị trí nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế

quốc dân của bất kỳ quốc gia nào. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà

còn là hệ thống sinh học, kỹ thuật.

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế cung cấp

những sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu của con người.

Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển

của con người và phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà hiện nay, mặc dù trình độ

khoa học - công nghệ ngày càng phát triển nhưng vẫn chưa ngành nào có thể thay thế



6

được. Xã hội càng phát triển, đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu của con

người về chất lượng lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng. Các nhà kinh tế

học đều thống nhất cho rằng, điều kiện tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương

thực cho nền kinh tế quốc dân bằng xuất khẩu lương thực, đảm bảo an ninh lương thực

Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định chính trị và thiếu sự đảm

bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển thì sẽ khó thu hút được đầu tư để phát triển

bền vững, lâu dài.

Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho

phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực thực

phẩm. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên

nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường.

Xã hội càng phát triển, thực phẩm nông sản ngày càng đa dạng, càng đòi hỏi phát triển

nhiều ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm. Quy mô, chất lượng, thời

điểm cung cấp nguyên liệu từ nông nghiệp quyết định nhiều đến sự phát triển ngành

công nghiệp chế biến nông sản.

Nông nghiệp cung cấp sản phẩm hàng hóa cho thị trường trong nước và quốc

tế. Bên cạnh đó còn cung cấp các yếu tố sản xuất khác như vốn, lao động cho các

ngành kinh tế khác.

+ Khu vực nông nghiệp còn là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển

kinh tế, trong đó có công nghiệp, tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi

nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản…

+ Khu vực nông nghiệp nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho

phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, một mặt tạo

ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông nghiệp

không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải phóng ngày càng

nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công nghiệp và đô thị. Đó

là xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia trong quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước.

Nông nghiệp và nông thôn còn là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm của công

nghiệp và dịch vụ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm

tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong

nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu



7

vực nông nghiệp nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông

nghiệp. Phát triển về nông nghiệp sẽ nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm

tăng sức mua từ khu vực nông thôn làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ

tăng, thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ phát triển. Vì thế nông nghiệp là một trong

những nhân tố đảm bảo cho các ngành công nghiệp khác như công nghiệp hóa học, cơ

khí, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ sản xuất. Sự phát triển của nông

nghiệp đòi hỏi phải cung cấp ổn định về vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy

móc nông cụ cũng như các mặt hàng tiêu dùng công nghiệp.

Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền

vững của môi trường vì sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với môi trường tự

nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như

phân bón hoá học, thuốc trừ sâu... làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Dư lượng độc tố

trong sản phẩm tăng làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Nếu rừng bị tàn phá, đất

đai sẽ bị xói mòn, thời tiết, khí hậu thuỷ văn thay đổi xấu sẽ đe doạ đời sống của con

người. Vì thế trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm ra các giải pháp

thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển về môi trường.

1.1.1.3. Phát triển nông nghiệp

a. Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng và phát triển

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lên về số lượng và sự cải thiện về chất lượng

của sản phẩm xã hội và các yếu tố sản xuất ra sản phẩm xã hội. Tăng trưởng là sự gia

tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân, hoặc thu nhập quốc dân và sản phẩm

quốc dân tính theo đầu người. Nếu như sản phẩm hàng hoá trong một quốc gia tăng

lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản xuất,

từng vùng sản xuất của một quốc gia. Để biểu thị tăng trưởng kinh tế, người ta dùng

mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu

người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước, đó là mức tăng % hay tuyệt đối hàng năm,

hay tính bình quân trong một giai đoạn. Tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm

liên tục trong một giai đoạn nhất định sẽ cho khái niệm tốc độ tăng trưởng, đó là sự

tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.

Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bao gồm tăng trưởng cộng thêm

các thay đổi cơ bản trong cơ cấu nền kinh tế, phát triển là việc nâng cao phúc lợi của



8

nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm bảo sự

bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển kinh tế có thể hiểu là quá trình chuyển

biến theo hướng tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong

đó bao gồm tăng trưởng về của cải vật chất và sự tiến bộ xã hội.

Tóm lại, phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một chuyển biến của

nền kinh tế từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn. Để phản ánh mức độ phát triển

kinh tế của một ngành trong từng thời kỳ cụ thể, chúng ta phải sử dụng các nhóm chỉ

tiêu như giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, cơ cấu các ngành và cơ cấu nội bộ ngành...

b. Khái niệm về phát triển nông nghiệp

Theo Đỗ Kim Chung (2009), phát triển nông nghiệp thể hiện quá trình thay đổi

của nền nông nghiệp ở giai đoạn này so với giai đoạn trước đó và thường đạt ở mức độ

cao hơn về cả lượng và chất. Nền nông nghiệp phát triển là một nền sản xuất vật chất

không những có nhiều hơn về đầu ra (sản phẩm và dịch vụ) đa dạng hơn về chủng loại

và phù hợp hơn về cơ cấu, thích ứng hơn về tổ chức và thể chế, thỏa mãn tốt hơn nhu

cầu của xã hội về nông nghiệp [4]

Phát triển nông nghiệp là một quá trình, thay đổi nền nông nghiệp và chịu sự tác

động của quy luật thị trường, chính sách can thiệp vào nền nông nghiệp của chính phủ,

nhận thức ứng xử của người sản xuất và người tiêu dùng về các sản phẩm và dịch vụ

tạo ra trong lĩnh vực nông nghiệp. Nền nông nghiệp phát triển là kết quả của quá trình

phát triển nông nghiệp.

Phân biệt giữa tăng trưởng và phát triển nông nghiệp như sau:

+ Tăng trưởng nông nghiệp chỉ thể hiện ở thời điểm nào đó, nền nông nghiệp có

nhiều đầu ra hơn so với giai đoạn trước, chủ yếu nhằm phản ánh sự thay đổi về kinh tế

và tập trung nhiều về mặt lượng. Nó thường được đo bằng mức tăng thu nhập quốc

dân trong nước của nông nghiệp, mức tăng về sản lượng và sản phẩm nông nghiệp, số

lượng và diện tích, số đầu con vật nuôi.

+ Phát triển nông nghiệp thể hiện cả về lượng và chất, không những bao hàm cả

tăng trưởng mà còn phản ánh các thay đổi cơ bản trong cơ cấu nông nghiệp, sự thích

ứng của nông nghiệp với hoàn cảnh mới, sự tham gia của người dân trong quản lý và

sử dụng nguồn lực, sự phân bố của cải và tài nguyên giữa các nhóm dân cư trong nội

bộ nông nghiệp và giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế khác. Phát triển nông

nghiệp bao hàm cả kinh tế, xã hội, tổ chức, thể chế và môi trường.



9

+ Tăng trưởng và phát triển có quan hệ với nhau. Tăng trưởng là điều kiện cho

sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên cần thấy rằng do chiến lược phát triển nông

nghiệp chưa hợp lý mà có tình trạng một quốc gia có tăng trưởng nông nghiệp mà

không có phát triển nông nghiệp.

c. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nông nghiệp

Phát triển nông nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, tùy vào mỗi quốc gia,

lãnh thổ, vùng mà các nhân tố có sự đóng góp khác nhau vào quá trình phát triển nông

nghiệp. Nhìn chung, có thể tổng kết thành tám nhóm nhân tố sau:

Một là tài nguyên nông nghiệp bao gồm: tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, sinh

vật, khí hậu), tài nguyên tài chính (tích lũy của nền kinh tế, mức tiết kiệm của cư dân),

tài nguyên xã hội (vốn xã hội), ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển

của nền nông nghiệp. Tài nguyên nông nghiệp quy định lợi thế so sánh về nông nghiệp

ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển nông nghiệp.

Hai là quy mô dân số, cấu trúc dân tộc và dân cư. Mức bình quân về tài nguyên

ảnh hướng lớn tới sự phân bố, khai thác và sử dụng tài nguyên do đó ảnh hưởng tới

phát triển nông nghiệp. Quy mô dân số ảnh hưởng tới cầu của thị trường về sản phẩm

nông nghiệp, cho nên ảnh hưởng trực tiếp tới việc phân bổ sử dụng tài nguyên vào sản

xuất, kinh doanh các nông sản. Cấu trúc dân tộc thể hiện ở việc một quốc gia (vùng)

có ít hay nhiều các dân tộc ít người hay nhiều dân tộc đa số sẽ phát triển nông nghiệp

khác nhau. Sự khác biệt đó là về kiến thức bản địa, giá trị văn hóa và nó liên quan tới

sự phát triển nông nghiệp ở các mức độ khác nhau.

Ba là thể chế và chính sách can thiệp của chính phủ vào nông nghiệp. Các chính

sách vì mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau thì có các chính sách, can thiệp

khác nhau vào nền nông nghiệp, sẽ có sự ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp.

Bốn là mức độ công nghiệp hóa nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói

riêng. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa làm nông nghiệp phát triển hơn.

Năm là nhu cầu thị trường và hệ thống thị trường. Tín hiệu thị trường giúp

người sản xuất và người tiêu dùng có các ứng xử phù hợp.

Sáu là nền khoa học và công nghệ bao gồm: quá trình sinh học hóa, hóa học

hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa và công nghiệp hóa nền nông nghiệp. Đây

là lực lượng sản xuất trực tiếp ảnh hưởng tới sự phát triển nông nghiệp.

Bảy là nền kinh tế càng hội nhập, thị trường càng mở cửa thì nền nông nghiệp

càng phát triển.



10

Tám là thể chế chính trị càng ổn định thì nền nông nghiệp càng phát triển.

* Lao động trong nông nghiệp

- Đặc điểm của lao động trong nông nghiệp

+ Sử dụng lao động mang tính thời vụ, phần lớn lao động ít được đào tạo

+ Lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu lao động nông thôn.

+ Lao động trong nông nghiệp cũng có thị trường. Thị trường lao động trong

nông nghiệp có 3 đặc điểm: 1 là cung lao động nông nghiệp dồi dào, 2 là cung lao

động nông nghiệp mang tính thời vụ, 3 là giá tiền công lao động thường thấp.

* Vốn trong nông nghiệp: Do chu kỳ sản xuất nông nghiệp dài và có tính thời

vụ nên vốn dùng trong nông nghiệp có mức chu chuyển chậm và cũng có tính thời vụ.

Vốn trong nông nghiệp đa dạng, một phần vốn này được dùng ngay vào trong quá

trình sản xuất tiếp theo và thường không thông qua trao đổi trên thị trường. Do đó tính

toán cần dựa theo giá trị cơ hội của các sản phẩm đó.

* Công nghệ trong nông nghiệp

- Vai trò của công nghệ trong nông nghiệp

+ Công nghệ giúp cho quá trình sản xuất được diễn ra có hiệu quả. Công nghệ

là hướng để làm tăng sản phẩm trong điều kiện nguồn lực ngày một khan hiếm

+ Công nghệ làm cho các đầu vào trong nông nghiệp ngày càng đa dạng hơn.

Công nghệ làm cho người sản xuất có thu nhập cao hơn và nhiều thời gian rảnh rỗi

hơn. Do đó góp phần làm tăng chất lượng cuộc sống của người lao động.

- Đặc điểm của công nghệ trong nông nghiệp

+ Công nghệ gắn liền với các quá trình sinh học. Công nghệ trong nông nghiệp

là sự kết hợp chặt chẽ giữa các kỹ thuật hiện đại và cổ truyền.

+ Công nghệ trong nông nghiệp được xây dựng theo hướng của một nền nông

nghiệp bền vững.

* Tài nguyên thiên nhiên và môi trường trong nông nghiệp

Cần quan tâm tới tác động ngoại ứng tiêu cực của các hoạt động trong nông

nghiệp. Đó là ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động kinh doanh ra khỏi phạm vi của nông

trại. Ví dụ ô nhiễm đất, nước do dư việc dùng hóa chất không đúng quy định, canh tác

không hợp lý ở thượng nguồn gây lũ lụt vùng hạ lưu…cần có kế hoạch sử dụng hợp lý

và phục hồi, tái tạo tài nguyên.



11

1.1.2. Hộ nông dân

Theo tác giả Nguyễn Thu Hằng, (2008), luận văn thạc sĩ kinh tế, trường Đại học

Thái Nguyên đã trích dẫn khái niệm Hộ trong từ điển ngôn ngữ của Mỹ (Oxford Press 1987) có nghĩa " Hộ là tất cả những người cùng sống chung trong một mái nhà. Nhóm

người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm ăn chung" [5].

Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc sống chung hay không sống chung

với những người khác huyết tộc trong cùng một mái nhà, ăn chung và có chung một

ngân quỹ.

Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một

đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị kinh tế độc lập tuyệt

đối hoàn toàn, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế

quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị

trường xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc

nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một

nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình hình hiện nay.

Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát

triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động nông nghiệp, theo nghĩa rộng bao gồm cả nghề

rừng, nghề cá và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện qua sự hoạt động

của hộ nông dân.

1.1.3. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp

Điểm khác biệt đầu tiên của sản xuất nông nghiệp đối với các ngành khác là

khả năng sản xuất ra lương thực, là sản phẩm thứ yếu mà mọi người phải cần đến nó.

Lao động sử dụng trong nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong giai đoạn đầu

phát triển của một nước; đồng thời, trình độ cũng như kỹ năng của lao động nông

nghiệp là thấp tương đối so với những ngành khác. Sản xuất nông nghiệp phải gắn liền

với nguồn lực đất đai và chịu ảnh hưởng của thời tiết. Công nghệ sử dụng trong sản

xuất nông nghiệp thường là những kiểu công nghệ truyền thống, đã tồn tại hàng trăm

hay hàng nghìn năm trước và rất khó thay đổi cho dù khoa học kỹ thuật đã thay đổi rất

nhiều trong khoảng thời gian đó và sự khác biệt về chất lượng đất đai và thời tiết đã

khiến cho kỹ thuật canh tác nông nghiệp không thể áp dụng ở nhiều nơi theo một cách

giống nhau được, cho dù là cùng một quốc gia hay cùng một địa phương. (Nguyễn

Trọng Hoài, 2007 ) [6]



12

1.1.4. Lịch thời vụ

Là lịch ghi rõ các hoạt động chính, những khó khăn và thuận lợi trong suốt chu

kỳ hàng năm dưới dạng biểu đồ, nó có thể sử dụng tóm lượt các việc như:

- Thời vụ ở địa phương.

- Khí hậu (lượng mưa và nhiệt độ).

- Thứ tự gieo trồng hoa màu.

- Chăn nuôi gia súc.

- Nuôi trồng thủy sản.

- Các hoạt động sản xuất của hộ.

- Nhu cầu lao động.

a. Cơ cấu lịch thời vụ của mô hình lúa đơn:

Hè Thu



2



3



4



Đông Xuân



Thu Đông



5



6



7



8



9



10



11 12



1



2



Hình 1.1. Cơ cấu lịch thời vụ mô hình lúa đơn

Vụ Hè Thu xuống giống kéo dài từ đầu tháng 2 đến tháng 3 (âm Lịch) và thu

hoạch vào tháng 6. Vụ Thu Đông xuống giống vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 (âm Lịch)

và thu hoạch vào tháng 10. Vụ Đông Xuân xuống giống cuối tháng 10 đến tháng 2

năm sau (âm lịch) thu hoạch.

b. Cơ cấu lịch thời vụ của mô hình lúa – thủy sản:

Hè Thu



2



3



4



Đông Xuân



Thủy sản



5



6



7



8



9



10



11 12



1



2



Hình 1.2. Cơ cấu lịch thời vụ mô hình lúa - thủy sản

Vụ Hè Thu xuống giống kéo dài từ đầu tháng 2 đến tháng 3 (âm lịch) và thu

hoạch vào tháng 6. Vụ thủy sản bắt đầu vào cuối tháng 6 và đến cuối tháng 10 thu

hoạch. Vụ Đông Xuân xuống giống cuối tháng 10 đến tháng 2 (âm lịch) thu hoạch.

1.1.5. Sản xuất nông nghiệp theo cách tiếp cận bền vững

Nông nghiệp bền vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc

nhiều lĩnh vực khác nhau quan tâm như: nông học, sinh thái học, xã hội học.

Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về nông nghiệp bền vững, trong đó đáng



13

quan tâm là định nghĩa của t ổ chức sinh thái và môi trường thế giới (WORD) bởi

nó có tính tổng hợp và khái quát cao: “Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp

thỏa mãn được các yêu cầu của thế hệ hiện nay, mà không giảm khả năng đối với

các thế hệ mai sau”. Điều đó có nghĩa là nền nông nghiệp không những cho

phép khai thác tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích của họ mà còn duy trì được khả năng

cho thế hệ mai sau. Cũng có ý kiến cho rằng, sự bền vững của hệ thống nông nghiệp

là khả năng duy trì hay tăng thêm năng suất và sản lượng nông sản trong một thời

gian dài mà không ảnh hưởng điều kiện sinh thái.

Tài nguyên nông nghiệp chủ yếu là đất đai, nó vừa là sản phẩm của tự

nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Nhiệm vụ cơ bản của nông nghiệp bền vững là

quản lý tốt đất đai: sử dụng hợp lý, bảo vệ và không ngừng bồi dưỡng đất đai làm

cho đất đai ngày càng màu mỡ. Nhưng để đáp ứng yêu cầu cuộc sống, tình trạng

khai thác quá mức làm cho đất sản xuất nông nghiệp ngày càng kém màu mỡ, bên

cạnh đó việc áp dụng biện pháp canh tác chưa thật sự phù hợp làm cho sâu bệnh có

điều kiện phát triển…Vì thế, để hướng đến sự phát triển bền vững thì việc lựa chọn

mô hình canh tác phù hợp là hết sức quan trọng, có thể đáp ứng yêu cầu cuộc sống, có

thể vừa sử dụng vừa quan tâm đến việc cải thiện quỹ đất.

1.1.6. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp:

- Cơ cấu sản xuất là sự sắp xếp duy nhất và ổn định trong hoạt động của hộ với

điều kiện nhất định về mặt vật lý, sinh học, kinh tế, phù hợp với mục tiêu, sở thích và

các nguồn tài nguyên. Những nhân tố này tác động đến sản phẩm làm ra và phương án

sản xuất. Cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp là xác định rõ cơ cấu cây trồng vật nuôi.

- Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự cần thiết để thúc đẩy

sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững, phá thế độc canh cây lúa, bố trí canh

tác hợp lý để tối đa hóa việc sử dụng tài nguyên, đa dạng hoá sản phẩm nhưng phải bảo

đảm sự phát triển có tính hiệu quả. Áp dụng một cách hợp lý sự chuyển đổi trong cơ

cấu, phù hợp với điều kiện thuận lợi của từng nơi, vừa bảo đảm an ninh lương thực vừa

đem lại hiệu quả cao nhất cho hộ dân. Sự chuyển dịch phải đặt trong cơ chế thị trường,

phải theo hướng ngày càng hiện đại nhằm đem lại hiệu quả tối ưu. Như thế mới đảm

bảo sự phát triển an toàn và hiện đại. Do đó việc thực hiện không được chủ quan và

phải hết sức chú ý các nhân tố khách quan như khả năng về vốn, về việc tổ chức thực

hiện, về công nghệ khoa học kỹ thuật… và đặc bịêt là nhu cầu và điều kiện thị trường.



14

- Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: là một quá trình vận động, phát triển

và chuyển hóa của các bộ phận cấu thành nên tổng thể kinh tế. Từ cơ cấu kinh tế cũ

chuyển sang cơ cấu kinh tế mới đòi hỏi phải có thời gian và phải qua những nấc thang

nhất định của sự phát triển. Không thể có một cơ cấu kinh tế nào hoàn thiện tuyệt đối

và bất biến. Sự chuyển hóa đó diễn ra theo quy luật lượng đổi, chất đổi từ cơ cấu kinh

tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới phù hợp hơn và có hiệu quả hơn (Trần Đình Đằng, 2005).

Về bản chất chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi ba khu vực kinh tế: nông nghiệp,

công nghiệp, dịch vụ và trong sự phát triển đầu tư chuyển từ khu vực nông nghiệp sang

khu vực công nghiệp và một phần sang dịch vụ.

1.1.7. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch kinh tế trong sản xuất

nông nghiệp:

- Nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên địa phương: Đất đai, lao động và vốn đầu tư.

- Nhóm nhân tố nguồn lực đầu tư: tài chính, nhân lực, vốn và công nghệ cũng là

các nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến tác động của Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế. Trong đó, số lượng và chất lượng nhân lực quyết định tới việc hình thành và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, do đó ảnh hưởng mạnh tới phát triển kinh tế. Nhóm nhân

tố ảnh hưởng đến năng lực ra quyết định bao gồm: kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm

của người quản lý.

- Nhóm nhân tố thị trường bao gồm: thị trường đầu ra (sản phẩm và dịch vụ, số

lượng và chất lượng, giá bán và khả năng tiêu thụ sản phẩm), thị trường đầu vào (số

lượng, giá đầu vào, khả năng cung cấp).

- Nhóm nhân tố chính sách: Chính sách có tác động trực tiếp tới quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chính sách đầu tư công, chính sách phát triển thành phần

kinh tế, chính sách xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ dịch vụ phát triển sản xuất, khuyến

nông, khuyến công, chuyển giao công nghệ... Chính phủ can thiệp để tạo một môi

trường ổn định và thuận lợi cho tất cả các tổ chức kinh tế, thành phần kinh tế phát huy

hết được khả năng của mình, nắm bắt được các tín hiệu của thị trường.

1.2. Tổng quan mô hình sản xuất lúa đơn và lúa - thủy sản

1.2.1. Mô hình sản xuất lúa đơn: là mô hình chuyên trồng lúa, có giống lúa chất

lượng cao, có giống lúa truyền thống, được canh tác các vụ trong năm: 1 vụ lúa, 2 vụ

lúa, 3 vụ lúa. Cây lúa là được gieo trồng trên một diện tích đất từ vụ này sang vụ khác

nó có thể gặp phải một số vấn đề như:



15

(1) Dịch bệnh có điều kiện thuận lợi để phát triển và gây hại, vì khi trồng một

loại cây trồng thì dịch bệnh càng tăng khả năng thích ứng và lây lan từ vụ này sang vụ

khác. Khi đó, để ứng phó với vấn đề này thì việc lạm dụng chất hóa học là điều khó

tránh khỏi, một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.

(2) Mất cân đối chất dinh dưỡng vì đất không có khả năng bổ sung kịp thời các

chất dinh dưỡng cần thiết, độ màu mỡ của đất ngày càng kém, nếu tình trạng này kéo

dài thì hiệu quả sử dụng đất càng giảm, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững

trong tương lai.

(3) Trồng một loại cây, nếu sâu bệnh hay thiên tai phá hoại sẽ thất bại hoàn

toàn, tính rủi ro cao. Ngay cả khi được mùa, giá của sản phẩm loại cây trồng đó cũng

có thể hạ do cung quá lớn, không có hiệu quả trong canh tác.

1.2.2. Mô hình lúa - thủy sản :

Trên thế giới nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là mô hình nuôi kết hợp lúa-cá

ở môi trường nước ngọt ngày càng được đầu tư nghiên cứu, phát triển. Trong điều kiện

Việt Nam và đặc biệt ở vùng ĐBSCL.

Mô hình lúa - thủy sản là mô hình trồng lúa và nuôi cá kết hợp trên đồng ruộng.

Theo FAO (2008), đã xếp các đối tượng trong Nuôi trồng thủy sản thành 5 nhóm

chính: thủy sản nước ngọt, cá di cư hai chiều, cá biển, giáp xác, nhuyễn thể và rong

tảo. Nuôi trồng thủy sản là các hoạt động canh tác trên đối tượng sinh vật thuỷ sinh.

Quá trình này bắt đầu từ thả giống, chăm sóc, nuôi cho tới khi thu hoạch.

Nuôi cá ruộng là một phương thức sản xuất kết hợp giữa cấy lúa nước và nuôi

cá trên cùng một thửa ruộng, thường sản xuất lúa làm chính. Trên thế giới, nhiều nước

có nghề nuôi cá ruộng. Riêng Châu Á có một số nước nuôi cá ruộng khá phát triển như

Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Inđônêsia, Malaysia, Thái Lan,...Việt Nam có nghề

nuôi cá ruộng khá phát triển, xét về lịch sử thì nghề này phát triển sớm nhất tại một số

huyện của tỉnh miền núi phía Bắc như: Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Sơn La,...

Hiện nay, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai trung tâm phát

triển mạnh nhất và có tiềm năng lớn nhất về phát triển nuôi cá ruộng trong phạm vi cả

nước.[9].

Hình thức nuôi: Có hai hình thức nuôi chủ yếu là nuôi xen canh và luân canh.

Nuôi xen là cấy lúa và nuôi cá trong cùng một thời vụ, lúa cấy xong ít ngày thì mới

thả cá giống vào ruộng, thu hoạch cá thường phải làm xong trước khi gặt lúa. Nuôi

luân canh: cấy một vụ lúa và thu hoạch xong rồi mới nuôi một vụ cá.[9].



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

×