Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 131 trang )
-76Làm cho nhận thức của cán bộ quản lý đào tạo hiểu về vai trò ứng dụng CNTT
vào QLĐT. Ngoài việc sử dụng thiết bị CNTT một cách thông thường, cán bộ quản lý
cần phải nắm được tác dụng, xu hướng phát triển của CNTT trong tương lai. Nhận
thức đúng đắn, dẫn đến thái độ quản lý đúng, đưa đơn vị đi đúng hướng trong việc
phát triển ứng dụng CNTT vào quản lý và giảng dạy, góp phần đưa đơn vị đạt đến mục
đích đặt ra. Nhận thức đúng về tác dụng của CNTT, lãnh đạo sẽ có những tác động
thúc đẩy cán bộ đào tạo chuyên viên, giáo viên tăng cường ứng dụng CNTT vào
QLĐT, dạy học. Thông qua đó, trình độ cán bộ đào tạo về ứng dụng CNTT dần dần
được nâng cao, tạo tiền đề cho việc ứng dụng CNTT ở mức độ cao hơn.
Làm cho nhận thức của cán bộ đào tạo quản lý về CNTT nâng cao hơn. Mặc dù
năng lực của cán bộ quản lý về CNTT của nhà trường ở mức độ khá cao, nhưng với
yêu cầu của quản lý bằng CNTT thì trình độ này chưa đáp ứng được. Giải pháp này
nhằm làm cho cán bộ đào tạo nắm bắt xu hướng phát triển của CNTT, tác dụng của
việc ứng dụng CNTT, một số phần mềm thông dụng
4.2.1.2. Nội dung của giải pháp
- Cán bộ quản lý cần phải hiểu về tác dụng của CNTT. Một số cán bộ đào tạo
lãnh đạo còn chưa thấu hiều, chưa thấy hết được tác dụng của CNTT trong lưu thông
thông tin, mới thấy được tác dụng của CNTT trong quản lý. Cần nắm được rằng
CNNT có tác dụng rất to lớn, nó giúp cho việc thông tin được đa dạng, phong phú,
nhanh chóng. CNTT làm cho con người sống trong dòng thác thông tin, có thật có hư.
Con người sống trong môi trường đó cần phải có cách xử lý thông tin tương ứng, phù
hợp để tồn tại và phát triển. Khi nhận thức chưa đúng đắn, hành động sẽ không phù
hợp với xu thế. Khá nhiều cán bộ đào tạo lãnh đạo chỉ coi máy tính như máy chữ hiện
đại dùng để soạn thảo văn bản, bài trình chiếu như một giáo cụ trực quan sinh động và
coi đó là giáo án điện tử, mạng internet như một tờ báo điện tử để xem tin tức hàng
ngày. Lãnh đạo cần thấy được khả năng xử lý thông tin của máy tính, đặc biệt là các
chương trình ước lượng và kiểm định trong quá trình ra quyết định quản lý. Mạng
internet là một công cụ truyền thông tin nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm, là một kho
thông tin khổng lồ, một nguồn tri thức quý giá. Phải coi thông tin trên mạng internet là
một tài nguyên và phải khai thác tài nguyên đó một cách hợp lý, có ích cho công việc
của đơn vị. Thông qua mạng internet, lãnh đạo có thể đàm đạo, bạn bạc các định
hướng với đối tác, soạn thảo, học sinh nắm bắt thông tin trực tuyến mà không mất thời
gian trao đổi, gặp gỡ.
-77- Về xu hướng phát triển của CNTT trong tương lại. Lãnh đạo cần nắm được xu
hướng phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và của CNTT nói riêng. Quy luật
phát triển của khoa học kỹ thuật là càng về sau, những phát minh, những công nghệ
mới càng nhanh chóng được áp dụng vào thực tế, vào công việc hơn. CNTT không
nằm ngoài quy luật này. Những năm trong thập kỷ 80, CNTT còn chưa phát triển,
những người nắm được chuyên môn về CNTT còn rất ít, máy tính còn rất đắt tiền, tốc
độ thấp, dung lượng bộ nhớ nhỏ, sử dụng máy tính phải là những chuyên gia có
chuyên môn, số lượng chuyên gia về CNTT còn rất hạn chế. Nhưng chỉ sau đó 10
năm, những năm thập kỷ 90, ngành công nghệ thông tin đã phát triển vượt trội. Máy
tính đã nhỏ gọn hơn, tốc độ cao hơn, dung lượng bộ nhớ lớn hơn. Những kiến thức về
CNTT đã trở nên gần gũi với con người hơn, phần mềm thân thiện hơn. Nhiều người
sử dụng được máy tính và mạng internet hơn. CNTT và mạng internet đến nay đã rất
gần gũi với xã hội.
Chúng ta có thể thấy được máy tính và mạng internet ở khắp nơi trong cuộc
sống hàng ngày, trong công việc, trong từng gia đình. Hơn nữa, trong xu hướng hội
nhập sâu rộng với thế giới, giáo dục cũng không thể nằm ngoài xu hướng này. Ứng
dụng CNTT trong quản lý và dạy học là một công cụ cần thiết, quan trọng cho sự hội
nhập. Nắm được xu hướng phát triển này, chúng ta cần có thái độ đúng với CNTT, với
việc ứng dụng CNTT trong quản lý và giảng dạy.
- Về thái độ đối với việc ứng dụng CNTT trong quản lý. Những kỹ thuật mới
thường được ứng dụng vào công việc một cách khó khăn, chậm chạp. Tâm lý chung
của nhiều người là ngại thay đổi, ngại tìm kiếm và ứng dụng những kỹ thuật mới,
những kỹ thuật hiện đại. Có những cách suy nghĩ đó là vì dùng kỹ thuật mới và hiện
đại phải tìm hiểu về nó trong điều kiện còn phần nào khó khăn về kinh tế, thiết bị còn
thiếu thốn, bận bịu về công việc và một tâm lý cơ bản là cách làm cũ vẫn có những
hiệu quả nhất định. Tâm lý này còn tồn tại trong một số lãnh đạo nên một số cán bộ,
chuyên viên ngại ứng dụng CNTT trong quản lý đào tạo. Nếu việc ứng dụng CNTT
trong quản lý có kết quả tốt thì được khen thưởng, nhưng nếu không đạt kết quả thì lại
bị cho rằng chơi trội, hiếu thắng. Mà lãnh đạo lại không thấu hiểu rẳng khi sử dụng
những kỹ thuật mới luôn luôn có sự mày mò, chập chững, chưa có ngay được kết quả
thỏa đáng. Ban đầu việc ứng dụng kỹ thuật mới trong công việc sẽ chậm hơn so với
làm việc theo cách thức truyền thống vì còn phải thử nghiệm, còn phải tập làm chủ kỹ
thuật, mà nhiều kỹ thuật mới lại không có tài liệu hướng dẫn. Thường lãnh đạo không
-78hài lòng về sự chậm trễ này. Vì thế lãnh đạo cần phải có thái độ đúng đắn với cán bộ
quản lý trong việc ứng dụng kỹ thuật mới vào quản lý.
Có sự động viên, khuyến khích cán bộ quản lý ứng dụng CNTT trong công việc
quản lý. Lãnh đạo nên hiểu rằng ứng dụng CNTT trong quản lý đang trong những
bước đi ban đầu, việc đó có những khó khăn. Nhưng với xu hướng phát triển của kỹ
thuật, những ứng dụng đó ngày càng phổ biến, nếu không bắt đầu, nhà trường sẽ tụt
hậu so với xã hội, so với những đơn vị khác. Bắt đầu càng sớm, đơn vị sẽ càng có
nhiều ứng dụng hơn, bắt đầu sớm, cán bộ đào tạo giáo viên càng có nhiều kinh nghiệm
thực tế. Đối với Trường CĐN Du lịch -Thương mai Nghệ An, điều đó cực kỳ quan
trọng vì một trong những nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo học sinh các ngành nghề,
trong đó ngoài hệ CĐ chính quy và trung cấp của nhà trường thì còn có cả hệ liên
thông ngoài trường, đào tạo ngắn hạn. Nhà trường có ứng dụng sớm thì sẽ nâng cao
hiệu quả của nhà trường và nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Khi kỹ năng
đó được nhân rộng, trình độ CNTT của cán bộ quản lý trong ngành được nâng cao, khả
năng ứng dụng CNTT trong quản lý lại càng được đẩy mạnh, hiệu quả quản lý càng
được nâng cao.
Có sự thông cảm nếu cán bộ quản lý không thành công trong ứng dụng CNTT
vào quản lý. Một kỹ thuật mới khi được ứng dụng vào thực tế công việc tất yếu sẽ có
những trục trặc nhất định. Điều đó không tránh khỏi. Như vậy sự không thành công
của cán bộ đào tạo là dễ hiểu.
Lãnh đạo nên có sự thông cảm với thất bại của cán bộ đào tạo chuyên viên dưới
quyền.
Nên chia sẻ chân tình, động viên cán bộ đào tạo tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu để
có thể thực hiện tốt hơn vào lần sau. Nên có những định hướng cho cấp dưới để cấp
dưới xác định đúng hướng, không mất thời gian tìm hiểu, nghiên cứu.
- Cán bộ quản lý cần coi thông tin là một tài nguyên quý giá, nên khai thác
đúng cách để phục vụ tốt cho đơn vị. Thông tin trên mạng là một tài nguyên như đất
đai, khoáng sản, nước, năng lượng, nhưng nó là dạng khác.
Thông tin là tài nguyên đặc biệt có thể khai thác mà không lo tài nguyên đó bị
hao hụt đi. Thông tin là nguồn động lực giúp cho nhà trường phát triển vững chắc nếu
như sử dụng tốt nguồn tài nguyên đó. Thông tin có những đặc điểm Thông tin có thể
dùng đi dùng lại nhiều lần mà không hề thay đổi. Thông tin có thể sao chép nhiều lần,
gửi cho nhiều người mà không bị thay đổi về tín hiệu.
-79Thông tin có mức độ tăng trưởng rất nhanh, có thể nó bây giờ là giai đoạn bùng
nổ thông tin. Lượng thông tin càng về thời gian gần đây càng có tốc độ gia tăng nhanh.
Tốc độ lan truyền của thông tin rất nhanh, thậm chí có thể đạt tốc độ ánh sáng. Thông
tin có thể truyền đến nơi xa nhất trên hành tinh hầu như là ngay lập tức.
• Yêu cầu đối với cán bộ
Yêu cầu phải thành thạo một số chương trình liên quan đến công việc được
giao. Cán bộ đào tạo cần sử dụng thành thạo các phần mềm Microsoft Word,
Microsoft Excel, Microsoft Powerpoint. Sử dụng thành thạo internet để tìm kiếm
thông tin, trao đổi thông tin qua các diễn đàn giáo dục, nhận và gửi thư điện tử. Sử
dụng được mạng LAN để chuyển giao thông tin nội bội.
- Phần mềm Microsoft Word là phần mềm chuyên về soạn thảo trong văn
phòng, nhưng nó được tích hợp rất nhiều chức năng. Chức năng trộn thư cho phép cán
bộ đào tạo, giáo viên soạn và in các giấy mời theo một danh sách đã có sẵn mà cần rất
ít thời gian cho công việc đó. Chức năng gửi văn bản qua đường thư điện tử giúp ta
gửi thẳng văn bản đó đến người nhận mà không phải thông qua một đơn vị bưu
chính… Cán bộ quản lý nên thành thạo sử dụng để tiết kiệm thời gian cho những công
việc văn phòng, dành thời gian nhiều hơn cho việc quản lý.
- Phần mềm Microsoft Excel là phần mềm bảng tính điện tử. Phần mềm này có
thể dùng để tính toán, thống kê các số liệu, quản trị cơ sở dữ liệu. Một chức năng hữu
hiệu của bảng tính điện tử là nó tự cập nhật tính toán lại kết quả khi các dữ liệu thành
phần đã thay đổi. Cán bộ quản lý sử dụng tốt chương trình này sẽ rất có lợi trong
những phép tính của quản lý như thống kê số buổi nghỉ học của , xét điều kiện dự thi,
lọc những phải thi lại….
- Phần mềm Microsoft Powerpoint là phần mềm trình chiếu. Sử dụng phần
mềm này, giáo viên có thể tạo ra bản trình chiếu trên máy tính với hình thức sinh
động, cuốn hút sinh viên trong giờ học. Phần mềm này có thể tạo ra nhiều hiệu ứng
hình ảnh chuyển động, mô phỏng nội dung bài giảng, mô phỏng các thí nghiệm nguy
hiểm đến sức khỏe của giáo viên và sinh viên hoặc những thí nghiệm cần thiết bị, hóa
chất đắt tiền.
- Cán bộ quản lý cần thành thạo về chương trình tìm kiếm thông tin trên mạng
internet. Trên mạng toàn cầu náy có nhiều trang web về công cụ tìm kiếm thông tin.
Cán bộ đào tạo quản lý thành thạo sử dụng chương trình tìm kiếm thông tin sẽ tiết
-80kiệm thời gian tìm kiếm. Thông tin trên internet rất phong phú, có những thông tin có
tiêu đề, hình thức giống nhau nhưng nội dung lại không phù hợp với yêu cầu của bản
thân. Trong một thời gian ngắn, chương trình tìm kiếm sẽ tìm thấy hàng chục nghìn
kết quả theo yêu cầu. Yêu cầu càng chung chung thì chương trình sẽ tìm ra càng nhiều
kết quả. Cán bộ đào tạo quản lý cần nắm thêm về tìm kiếm nâng cao để lọc bớt những
thông tin không phù hợp với mình, giữ lại thông tin cần thiết cho công việc của mình,
nâng cao hiệu suất tìm kiếm của công cụ tìm kiếm trên mạng.
- Cán bộ quản lý đào tạo cần biết cách sử dụng hộp thư điện tử trên internet.
Thư điện tử là một cách chuyển giao thông tin dạng số rất nhanh chóng, tiện lợi, rẻ
tiền. Có thể chuyển giao được tất cả các thông tin đã được số hóa như văn bản trên
máy tính, tranh ảnh, phim video. Trên internet có nhiều trang web có thể sử dụng hộp
thư điện tử, nhưng nên yêu cầu cán bộ quản lý sử dụng hộp thư của trang
cddltm.edu.vn. Cán bộ quản lý cần biết soạn thư, đính kèm tài liệu vào thư, gửi thư đi,
nhận thư, nhận tài liệu được gửi đến.
Nhận thức là yếu tố quan trọng trong hoạt động. Nhận thức đúng đắn thì hành
động đúng hướng và phù hợp với thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển. Lãnh đạo
nhận thức và hành động đúng thì tất yếu cán bộ đào tạo dưới quyền sẽ có nhận thức và
hành động phù hợp. Cán bộ quản lý nhận thức đúng thì sẽ có thái độ, hành vi phù hợp
với CNTT, sẽ có những ứng dụng tốt trong việc làm của bản thân.
4.2.1.3. Điều kiện thực hiện
Cán bộ quản lý có nhận thức đúng, có thái độ đúng về CNTT, nắm được xu
hướng phát triển của CNTT trong tương lai, tích cực trong ứng dụng CNTT. Cán bộ
đào tạo quản lý có kỹ năng sử dụng CNTT trong công tác của bản thân, có thể sử dụng
được mạng nội bộ, mạng internet.
4.2.2. Giải pháp “Hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin nhằm mục đích
tin học hoá quản lý đào tạo”
4.2.2.1. Mục tiêu của giải pháp
- Hoàn thiện các điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho ứng dụng CNTT vào
quản lý, bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý đào tạo. Đảm bảo 90%
cán bộ quản lý có máy tính riêng, có nối mạng LAN và mạng internet.
- Thống nhất các quy định về chuẩn thông tin theo quy định, thống nhất hướng
luân chuyển thông tin trong hệ thống. Đảm bảo thông tin trong toàn Trung tâm thống
nhất và phù hợp với nhu cầu tin học hóa trong quản lý.
-81- Hoàn thiện tổ chức bộ phận chuyên trách CNTT để thực hiện các nhiệm vụ
liên quan đến CNTT.
- Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ ứng dụng CNTT vào QLĐT.
- Tạo điều kiện cho cán bộ quản lý đào tạo, chuyên viên đào tạo khai thác và sử
dụng CNTT vào quản lý đào tạo
- Nâng cao ý thức trách nhiệm trong sử dụng CNTT vào QLĐT và bảo quản cơ
sở vật chất của của nhà trường
4.2.2.2. Nội dung của giải pháp
Về việc hoàn thiện cơ sở vật chất
- Xây dựng hạ tầng truyền thông
Hạ tầng truyền thông bao gồm một hệ thống các thiết bị, đường truyền dẫn kết
nối PGD với các đơn vị giáo dục. Hạ tầng truyền thông là một trong những hạng mục
quan trọng nhất cần xây dựng trong tiến trình đổi mới quản lý giáo dục bằng Công
nghệ thông tin và truyền thông giai đoạn 2013 - 2020. Một hạ tầng truyền thông hiện
đại là cơ sở để hình thành và phát triển chính phủ điện tử, theo đó luồng thông tin trao
đổi trong nội bộ cơ quan phòng, từ các phòng tới các trường, giữa phòng với Sở, giữa
các trường với nhau, giữa các đơn vị giáo dục với nhân dân được thực hiện thông suốt,
hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho quá trình ra quyết định của các cấp lãnh đạo
Các chức năng chính của hạ tầng truyền thông :
+ Cung cấp dịch vụ truy nhập tới các hệ cơ sở dữ liệu đặt tại Trung tâm dữ liệu
của phòng, đồng thời đảm bảo việc kết nối và trao đổi thông tin với mạng của huyện,
của Sở, của Thành phố.
+ Cung cấp dịch vụ thư tín điện tử với các đơn vị giáo dục, với các đơn vị
khác trong mạng diện rộng của UBND thành phố, của Sở GD -ĐT.
Việc xác định thiết kế cho hạ tầng truyền thông phụ thuộc vào khả năng đầu tư
của ngành, của huyện và nhu cầu trao đổi thông tin thực tế giữa ngành với các đơn vị
giáo dục.
Căn cứ trên tình hình thực tiễn nước ta hiện nay, có thể lựa chọn giải pháp dùng
Internet thuê bao. Đây là giải pháp đơn giản nhất nhưng cũng rất bài bản, thực hiện
được ngay, nhưng giá thành đắt, không phù hợp với điều kiện của ngành GD - ĐT.
+ Đầu tư xây dựng phòng CNTT - Multimedia tại nhà trường đạt chuẩn quốc
gia; mỗi phòng được trang bị từ 20 - 30 máy tính. Các máy tính tại phòng máy và các
-82bộ phận khác trong một đơn vị trường học được xây dựng thành mạng cục bộ có trang
bị công nghệ Mutimedia để sử dụng các phần mềm dạy học. Mạng máy tính của
trường học được hình thành như một “thư viện điện tử”, vừa sử dụng các phần mềm
dạy - học trên máy tính của các môn văn hoá và các môn chuyên ngành và sách giáo
khoa điện tử của các môn học đó, góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
+ Xây dựng các mạng cục bộ tại các đơn vị trường học được kết nối Internet và
vào mạng Intranet của phòng giáo dục.
So với giải pháp phần cứng (cơ sở hạ tầng thông tin) thì giải pháp phần mềm
mang tính ổn định về lâu dài và cần được quan tâm đầu tư một cách thoả đáng. Chính
giải pháp này mới mang lại sức sống cho mạng. Thực tiễn triển khai còn quá khiêm
tốn của công tác quản lý qua mạng như hiện nay không xuất phát từ nguyên nhân
“thấp kém về cơ sở hạ tầng thông tin”, mà xuất phát từ sự thiếu năng động trong việc
tìm kiếm và đề xuất giải pháp.
+ Thiết lập trung tâm tích hợp dữ liệu
Việc thiết lập trung tâm tích hợp dữ liệu của nhà trường là một vấn đề cần quan
tâm đúng mức để thực hiện tốt việc đổi mới quản lý giáo dục bằng Công nghệ thông
tin và truyền thông.
Trung tâm tin học tích hợp dữ liệu có trách nhiệm tập hợp các cơ sở dữ liệu
được hình thành từ việc tin học hoá các hệ thông thông tin quản lý của ngành. Các cơ sở
dữ liệu này được cài đặt trên các máy chủ có công suất cực lớn, có khả năng đáp ứng
chính xác các yêu cầu về truy nhập dữ liệu từ các cơ sở giáo dục, giáo viên, học sinh.
Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống mạng nội bộ (LAN) trong toàn nhà trường.
Mạng LAN có tác dụng lớn trong viêc chuyển giao thông tin nội bộ. Nhiều thông tin
được chuyển giao giữa lãnh đạo và các phòng ban, giữa các phòng ban với nhau.
Mạng LAN có thể được dùng để phổ biến thông tin trong toàn thể cán bộ, giáo viên.
Mạng LAN cũng có thể dùng để thay chế độ họp giao ban thường kỳ. Một số trường
học đã sử dụng phương pháp này thay cho phương pháp tập trung toàn bộ cán bộ đào
tạoquản lý, giáo viên lại để hợp giao ban thường kỳ. Ngoài ra, mạng LAN có thể để
chuyển giao những biểu mẫu báo cáo để cán bộ đào tạo quản lý báo cáo định kỳ.
Chương trình quản lý chạy trên mạng nội bộ giúp cho cán bộ đào tạo quản lý, giáo
viên, học sinh cập nhật tình hình học tập hàng ngày, lãnh đạo có thể nắm được thông
tin nhanh chóng mà không cần phải tham khảo ý kiến nhân viên, không phải yêu cầu
nhân viên báo cáo.
-83Trang bị máy tính hợp lý tại các phòng làm việc, các máy tính phải được nối
mạng LAN và nối mạng internet. Các máy tính trang bị tại các phòng giúp cán bộ đào
tạo đào tạo, giáo viên chủ động hơn trong ứng dụng CNTT trong quản lý và giảng dạy.
Tại Trường CĐN Du lịch -Thương mai Nghệ An, công việc của cán bộ đào tạo quản
lý, giáo viên rất đa dạng.
Ngoài công việc đào tạo, cán bộ quản lý còn theo dõi lịch dạy, chương trình học
của học sinh, cán bộ quản lý còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Hệ thống máy tính
tại các phòng có nối mạng LAN làm cho cán bộ quản lý, giáo viên không mất thời gian
đi từ chỗ này sang chỗ khác để thực hiện công việc. Mạng internet làm cho cán bộ đào
tạo quản lý, giáo viên luôn luôn nắm được thông tin thời sự khắp nơi trong và ngoài
nước, có thể liên lạc với nhiều đối tác với nội dung đa dạng, có thể trao đổi về chuyên
môn với đồng nghiệp, với những người có cùng sở thích mà thậm chí không biết về
họ, có thể quan hệ với những người có cùng mối quan tâm trên toàn thế giới. Mạng
internet giúp cho cán bộ đào tạo quản lý, giáo viên nâng cao trình độ, nâng cao nhận
thức, thấy được mức độ quan trọng của thông tin.
Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và đồng bộ, như: Hệ
thống máy tính có nối mạng internet, sự đồng bộ công tác ứng dụng công CNTT trong
quản lí tại các phòng ban, thường xuyên nâng cấp các phần mềm quản lí, phần mềm
QLKQHT,...Cùng với đó là chế độ báo cáo, việc xây dựng chương trình đào tạo mang
tính ổn định thường xuyên sẽ là các điều kiện thuận lợi để chuyên viên Đào tạo thực
hiện tốt các kỹ năng nghề nghiệp của mình như: kỹ năng sử dụng CNTT, kỹ năng thu
thập và xử lí thông tin, kỹ năng lập kế hoạch,... Cũng cần lưu ý, việc trang bị các điều
kiện vật chất, trang thiết bị cần được thực hiện đồng thời với công tác sử dụng và bảo
quản nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất.
Trang bị chương trình quản lý chạy trên mạng LAN. Chương trình này cần dễ
sử dụng để cán bộ đào tạoquản lý, giáo viên không cần phải có kiến thức sâu về CNTT
cũng có thể sử dụng được. Đây là điểm quan trọng vì trình độ CNTT của cán bộ đào
tạo quản lý, giáo viên trong nhà trường không đồng đều. Nếu chương trình khó sử
dụng sẽ làm cho cán bộ, giáo viên không muốn sử dụng. Chương trình dễ sử dụng làm
cho cán bộ đào tạo, giáo viên chóng quen với cách thức sử dụng chương trình, quen
với kỹ thuật mới, quen với ứng dụng CNTT trong công việc, nâng dần trình độ CNTT
của cán bộ đào tạo, giáo viên. Mặt khác, chương trình cần theo chuẩn dữ liệu chung để
-84có thể dễ dàng hòa nhập với các chương trình mà cấp trên đã trang bị hay sắp trang bị.
Chuẩn dữ liệu thống nhất làm cho việc sử dụng dữ liệu cho nhiều chương trình khác
nhau một cách thuận lợi.
Trang bị hệ thống máy tính tại phòng thông tin thư viện. Nhà trường có một
phòng thông tin thư viện. Đây là nơi người học có thể đến mượn đọc tài liệu. Đây là
nơi tập trung vào lúc những giờ nghỉ, hoặc ngoài giờ học trên lớp. Phòng thông tin thư
viện là nơi có thể thu thập được nhiều thông tin từ phía. Lãnh đạo nhà trường cần có lộ
trình tăng cường trang bị hệ thống thông tin tại phòng này. Các máy tính cần đủ cấu
hình để sử dụng đa dạng nhiều chương trình khác nhau và phải nối mạng internet. Dần
dần trang bị thêm các sách điện tử, thay thế dần sách giấy bằng sách điện tử. Người
học có thể sử dụng máy tính và mạng internet để truy cập thông tin tại đây. Hơn nữa,
người học có thể đề đạt những nguyện vọng của bản thân họ đến nhà trường không cần
đến phòng lãnh đạo, gặp trực tiếp lãnh đạo. Đây là cơ hội để lãnh đạo nhà trường nắm
bắt những yêu cầu, diễn biến tư tưởng của người học. Do không cần gặp mặt trực tiếp,
nên người học có thể nói rất thật những suy nghĩ, cảm nhận của bản thân đối với nhà
trường, với những cán bộ đào tạogiáo viên và người phục vụ của nhà trường. Đây là
một kênh thông tin tốt, mang lại nhiều thông tin đa chiều. Nhưng cũng có nhiều thông
tin gây nhiễu. Qua việc sàng lọc những thông tin này, xác minh tính đúng đắn của
thông tin mà lãnh đạo có thêm những cảm nhận về người học, về cán bộ đào tạogiáo
viên và nhân viên phục vụ.
Xây dựng trang thông tin (WEB) của nhà trường. Trang thông tin là một
phương tiện truyền bá, thu thập thông tin rất hữu hiệu nếu sử dụng nó đúng đắn. Trang
thông tin được xây dựng trên kỹ thuật siêu liên kết (hyper link) các thông tin trong
nhiều trang khác nhau. Thông tin trên trang web được thể hiện bằng nhiều hình thức
như văn bản, âm thanh, tranh ảnh, phim video… nên rất sống động và thu hút nhiều
người tham quan. Do vậy trang thông tin sẽ phổ biến thông tin về nhà trường đến được
rât nhiều người trong phạm vi rộng lớn. Trang thông tin cho phép người tham khảo
thông tin có thể giao lưu trực tiếp với nhau, với cán bộ đào tạolãnh đạo, cán bộ, giáo
viên của nhà trường nên thông tin đến được với người xem là rất cập nhật. Trên trang
thông tin có thể tổ chức những cuộc thăm dò ý kiến. Ý kiến được thăm dò có thể sẽ lan
truyền rất rộng, nhiều người trả lời. Nhà trường sẽ thu thập được rất nhiều ý kiến khác
nhau thông qua trang web để phân tích và hoạch định chiến lược cho đơn vị. Mặt khác,
trên trang web có thể tổ chức những dữ liệu mà mọi người có thể truy cập được.
-85Xây dựng kho dữ liệu dùng chung. Dữ liệu là các thông tin theo một chủ đề nào
đó như chương trình, giáo trình, thời khóa biểu, các bài giảng, cá tiểu luận… đã được
số hóa. Dữ liệu dùng chung được phát hành trên mạng.
Có dữ liệu mọi người có thể truy cập tự do, bất cứ ai cũng có thể tham khảo,
sao chép về làm tài liệu của mình. Thông thường đó là những thông tin có tính quảng
bá, quảng cáo cho đơn vị như thông báo tuyển sinh, thông tin về các hoạt động của
đơn vị. Có loại dữ liệu mà chỉ có những người có quyền truy cập mới có thể truy cập
được. Đó là dữ liệu có tính riêng tư của một người, hoặc của một đơn vị. Người có thể
truy cập được dữ liệu riêng như vậy thường là người trong đơn vị hoặc là người có liên
quan đến đơn vị và được đơn vị cung cấp quyền truy cập. Trong ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý và giảng dạy thường khó khăn và mất nhiều thời gian tìm hiểu
nghiên cứu. Vì vậy người nghiên cứu thành công một vấn đề thường có tâm lý không
muốn chia sẻ với những người khác, với đồng nghiệp của mình. Hoặc nếu có chia sẻ
thì vẫn giấu một yếu tố quan trọng nào đó. Nên có cơ chế để khuyến khích cán bộ đào
tạo, giáo viên chia sẻ những sản phẩm mình làm được với toàn thể những người khác.
Cần hướng dẫn để cán bộ đào tạo, giáo viên có thói quen chia sẻ, sử dụng chung
những kết quả nghiên cứu. Làm cho cán bộ đào tạo hiểu được rằng khi chia sẻ sản
phẩm mình sẽ làm cho dữ liệu chung của nhà trường mở rộng, sử dụng sẽ tiện lợi hơn.
Dần dần sẽ tạo nên một cơ sở dữ liệu dùng chung trong nhà trường.
Cơ sở vật chất là yếu tố quan trọng để cho cán bộ đào tạo, giáo viên thực hiện
được ý tưởng của bản thân. Cơ sở vật chất tạo ra nhu cầu sử dụng nó vào công tác
hàng ngày. Nhưng tăng cường cơ sở vật chất cần phải có lộ trình và phù hợp với năng
lực ứng dụng của cán bộ đào tạo, giáo viên trong nhà trường, nếu không thì sẽ gây
lãng phí.
Về quy định chuẩn thông tin và hướng luân chuyển thông tin trong hệ thống
quản lý cần phải thống nhất về chữ, cỡ chữ, kiểu chữ…
4.2.2.3. Điều kiện thực hiện giải pháp
Trung tâm có hệ thống cơ sở vật chất về CNTT phù hợp với năng lực sử dụng
của cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu quản lý bằng CNTT. Hệ thống mạng LAN có
thể phục vụ được các chương trình quản lý. Hệ thống mạng internet phục vụ được việc
truy cập thông tin cho cán bộ quản lý và Hệ thống thư viện điện tử và kho dữ liệu dùng
chung phù hợp đối tượng học sinh của nhà trường.
-86- Người Hiệu trưởng phải có tầm nhìn chiến lược lâu dài và phải biết đánh giá,
ưu tiên cho những công việc cụ thể.
- Mọi thành viên trong nhà trường, đặc biệt là cán bộ quản lý đào tạo, giáo viên
phải có trách nhiệm cùng các bộ phận liên quan trong việc bảo quản, sử dụng và đề
xuất mua sắm vật tư thuộc công nghệ.
4.2.3. Giải pháp “Ứng dụng phần mềm vào công tác quản lý đào tạo”
4.2.3.1. Mục tiêu của giải pháp
- Tạo ra nội dung quản lý phù hợp với việc ứng dụng CNTT. Quản lý thông qua
việc ứng dụng CNTT có vai trò to lớn. Nội dung quản lý cần được thay đổi. Theo cách
thức truyền thống, các nội dung quản lý được thể hiện trên giấy tờ, văn bản được đưa
đến những người có trách nhiệm thực hiện.
Thông tin trên hệ thống máy tính có nhiều chuẩn khác nhau. Việc quy định một
chuẩn thống nhất là một việc rất cần thiết. Một chuẩn dữ liệu thống nhất giúp cho toàn
bộ hệ thống sử dụng được dữ liệu của tập thể. Chuẩn dữ liệu cần phải để cho mọi hệ
thống máy tính đều có thể mở được, có thể sử dụng được. Chuẩn của dữ liệu dạng ký
tự đã được quy định là chuẩn 16 bít, dùng bộ mã unicode. Đây là bảng mã có tính phổ
dụng cao, chỉ cần dùng bộ mã trên máy tính là có thể sử dụng được dữ liệu của nhà
trường. Do lịch sử để lại nên trước đây chuẩn dữ liệu sử dụng là bộ mã TCVN 3. Đây
là bảng mã 8 bit, không phổ dụng trên tất cả các hệ thống máy tính. Những máy tính
không cài đặt bảng mã này sẽ không sử dụng được dữ liệu được mã hóa theo dạng này.
Do những bất tiện trong việc sử dụng nên hiện nay bộ mã chuẩn tiếng Việt được quy
định lại là dùng bảng mã unicode. Hiện nay, trong thực tế vẫn có nhiều người sử dụng
bộ mã TCVN 3, do vậy khi chuyển giao thông tin giữa các máy tính, một số máy tính
không sử dụng được. Để phát triển rộng rãi việc ứng dụng CNTT trong nhà trường,
lãnh đạo cần quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt việc sử dụng chuẩn dữ liệu. Chuẩn dữ
liệu thống nhất giúp cho đơn vị có thể xây dựng được thư viện dữ liệu dùng chung, tạo
điều kiện cho cán bộ đào tạo có thể tham khảo trong thư viện để có được những thông
tin phục vụ công việc và có thể sử dụng chúng một cách tiện lợi. Thư viện dữ liệu giúp
cho cán bộ đào tạo có thể bổ sung những mặt còn thiếu sót cho nhau, giúp cho toàn thể
cán bộ đào tạogiáo viên nhanh chóng phổ cập.
Thay đổi quy định hướng lưu chuyển thông thi theo cách thức mới. Thông tin
làm cho BGH nắm được trạng thái của hệ thống trong thời điểm cụ thể để ra những