Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.16 KB, 129 trang )
21
Tính đa dạng của dịch vụ ngân hàng bán lẻ được đánh giá thông qua các loại
hình dịch vụ cung cấp cho những khách hàng cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Chỉ tiêu này rất quan trọng vì đặc điểm của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là
tính khác biệt thấp nên ngân hàng nào đưa ra nhiều loại hình dụch vụ mới là một ưu
thế cạnh tranh nổi trội. Quy mô dịch vụ cũng như tính đa dạng của dịch vụ ngân hàng
bán lẻ thể hiện ở các tiêu chí đánh giá sau:
-
Số lượng sản phẩm bán lẻ theo từng nhóm sản phẩm (sản phẩm huy động
vốn, sản phẩm tín dụng bán lẻ, sản phẩm thẻ….)
-
Số lượng sản phẩm bán lẻ triển khai mới trong năm.
-
Tốc độ phát triển sản phẩm mới.
-
Số dư huy động vốn dân cư, dư nợ tín dụng ... qua các năm.
1.3.4.2 Quy mô và chất lượng của hệ thống kênh phân phối
Kênh phân phối là công cụ hiệu quả giúp ngân hàng cung ứng sản phẩm dịch vụ
và giao tiếp với thị trường rất có hiệu quả. Trong đó hệ thống các chi nhánh là kênh
phân phối quan trọng nhất, đã thực hiện thành công cả hai chức năng trên. Nhờ vào vị
trí và hệ thống thanh toán thuận lợi của các chi nhánh, các ngân hàng thu hút các
khoản tiền gửi với khối lượng nhỏ nhưng tương đối rẻ, đồng thời cùng dễ dàng cung
cấp các loại dịch vụ gắn liền với cho vay và các loại dịch vụ phụ trợ khác. Do khách
hàng của hoạt động ngân hàng bán lẻ là dân cư có địa bàn cư trú rải rác nên để mở
rộng hoạt động, số lượng các chi nhánh của các ngân hàng đã không ngừng tăng lên.
Tuy nhiên, trong số các kênh phân phối dịch vụ thì mạng lưới chi nhánh vẫn có
những nhược điểm nhất định, đặc biệt là rất tốn chi phí xây dựng, duy trì và quản lý.
Việc phát triển hệ thống chi nhánh đòi hỏi ngân hàng phải có sức mạnh tài chính.
Ngày nay, các ngân hàng đẩy mạnh việc sử dụng các kênh phân phối khác - đặc biệt là
các kênh có sử dụng công nghệ tiên tiến - để khắc phục các nhược điểm trên.
Để có được mạng lưới khách hàng rộng khắp, các ngân hàng phải phát triển
mạng lưới phân phối của mình. Mạng lưới phân phối của ngân hàng không chỉ gồm các
chi nhánh, phòng giao dịch mà còn bao gồm những ngân hàng ảo như Internet banking,
Mobile banking … hay hệ thống các máy rút tiền tự động (ATM), máy thanh toán thẻ
(POS). Việc phối hợp các kênh phân phối sao cho có hiệu quả là một vấn đề mang tính
chiến lược mà các ngân hàng phải quan tâm trong việc mở rộng hoạt động ngân hàng
bán lẻ. Việc mở rộng và hoàn thiện các kênh phân phối sẽ tạo điều kiện cho khách hàng
22
tiếp xúc với các sản phẩm của ngân hàng dễ dàng, thuận tiện.
Quy mô của kênh phân phối xem xét dựa trên các tiêu chí như:
- Loại hình phân phối: kênh truyền thống, kênh điện tử.
- Số lượng kênh phân phối: số lượng kênh phân phối truyền thống, số lượng
kênh phân phối điện tử.
- Tốc độ tăng trưởng của các kênh phân phối.
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ thực chất là phát triển các tiện ích ngân
hàng trên nền công nghệ hiện đại và mạng lưới kênh phân phối đến tận tay người tiêu
dùng, làm cho ngân hàng trở thành ngân hàng của mọi nhà và mọi nhu cầu thanh toán,
chuyển tiền, chuyển vốn qua hệ thống kênh phân phối của ngân hàng. Vì vậy chất
lượng của kênh phân phối đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển dịch
vụ ngân hàng bán lẻ.
Với kênh phân phối ngân hàng điện tử: phải đảm bảo an toàn, dễ sử dụng, độ
chính xác cao. Với kênh phân phối chi nhánh, phòng giao dịch yếu tố thân thiện, có
khả năng tư vấn tốt, nhanh sẽ là các yếu tố được khách hàng quan tâm nhiều nhất.
1.3.4.3 Thị phần chiếm lĩnh trên thị trường
Bất kỳ một sản phẩm hay dịch vụ nào đều không được đánh giá là tốt hay một
nhà cung cấp sản phẩm được đánh giá là phát triển nếu không được một lực lượng
đông đảo khách hàng đón nhận và sử dụng. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng
không nằm ngoài quy luật chung đó.
Hiện nay, khi đánh giá sự phát triển của dịch vụ ngân hàng bán lẻ, một trong
những tiêu chí quan trọng là thị phần chiếm lĩnh thị trường hay số lượng khách hàng
mà mỗi ngân hàng có được. Tùy theo vị trí của mình trên thị trường mà mỗi ngân hàng
có mục tiêu chiếm lĩnh thị phần khác nhau. Đó có thể là thị phần huy động vốn dân cư,
thị phần tín dụng bán lẻ hay thị phần thẻ ATM.
Thị phần là tỷ lệ phần trăm thị trường mà ngân hàng chiếm lĩnh được. Chỉ tiêu
này cho biết mức độ phát triển các dịch vụ ngân hàng so với các ngân hàng khác. Tất
nhiên không phải ngân hàng nào có thị phần lớn thì dịch vụ ngân hàng phát triển (ví dụ
như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn). Nhưng thị phần cho thấy vị thế
và sự ổn định của ngân hàng trong việc phát triển dịch vụ trên thị trường.
Việc thiết lập các chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của dịch vụ ngân hàng bán
lẻ là hết sức cần thiết, nó là cơ sở để ngân hàng kiểm tra đánh giá hiệu quả chiến lược
23
phát triển ngân hàng và phát triển dịch vụ ngân hàng trong từng thời kỳ. Các chỉ tiêu
phản ánh thị phần chiếm lĩnh hay sự phát triển của một số sản phẩm tiêu biểu như sau:
- Sản phẩm huy động vốn
Thị phần số dư huy động =
Số dư huy động của ngân hàng
Tổng số dư huy động của các ngân hàng trên địa bàn
Tốc độ tăng trưởng thị phần số dư huy động.
- Sản phẩm tín dụng bán lẻ
Thị phần Dư nợ =
Dư nợ tín dụng bán lẻ của ngân hàng
Tổng dư nợ tín dụng bán lẻ của các ngân hàng trên địa bàn
Tốc độ tăng trưởng thị phần dư nợ.
- Sản phẩm thẻ
Thị phần phát hành thẻ =
Thị phần máy POS =
Thị phần máy ATM =
Số lượng thẻ phát hành của ngân hàng
Tổng số lượng thẻ phát hành
của các ngân hàng trên địa bàn
Số lượng máy POS của ngân hàng
Tổng số lượng máy POS
của các ngân hàng trên địa bàn
Số lượng máy ATM của ngân hàng
Tổng số lượng máy ATM
của các ngân hàng trên địa bàn
- Sản phẩm ngân hàng điện tử
Số lượng khách hàng sử dụng sản phẩm
ngân hàng điện tử của ngân hàng
Thị phần khách hàng = Tổng số lượng khách hàng sử dụng sản phẩm ngân hàng
điện tử của các ngân hàng trên địa bàn
- Sản phẩm thanh toán kiều hối
Thị phần kiều hối =
Doanh số kiều hối của ngân hàng
Tổng doanh số kiều hối
của các ngân hàng trên địa bàn
1.3.4.4 Thu nhập từ dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Lợi nhuận là mục tiêu sống còn của bất kỳ dịch vụ kinh doanh nào nên một ngân
hàng có dịch vụ ngân hàng bán lẻ phát triển thì thu nhập từ dịch vụ ngân hàng bán lẻ
phải chiếm một tỷ lệ tương đối so với tổng thu nhập của hoạt động ngân hàng.
Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ ngân hàng bán lẻ cao hay thấp tùy thuộc vào ngân
hàng chú trọng vào phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ hay không hoặc ngân hàng
đang ở giai đoạn bắt đầu hay đã phát triển loại hình dịch vụ bán lẻ từ rất lâu. Tỷ trọng
24
thu nhập từ dịch vụ ngân hàng bán lẻ của một ngân hàng tăng dần, và chiếm tỷ trọng
lớn khiến ta thấy rằng hoạt động ngân hàng đang chuyển dịch sang hoạt động bán lẻ.
Thu nhập từ dịch vụ ngân hàng bán lẻ = Thu nhập từ phí + Thu nhập từ lãi của
hoạt động bán lẻ.
Thu nhập từ hoạt động
Tỷ trọng thu thập từ
ngân hàng bán lẻ
= Tổng thu nhập ròng của ngân hàng
dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Tốc độ tăng trưởng
của thu nhập từ hoạt động =
bán lẻ trong năm
Thu nhập từ dịch vụ
Thu nhập từ dịch vụ
–
bán lẻ năm nay
bán lẻ năm trước
Thu nhập từ dịch vụ bán lẻ năm trước
1.3.4.5 Chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Chất lượng dịch vụ có tính quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển của dịch
vụ ngân hàng bán lẻ. Bởi vì nếu như chất lượng dịch vụ không đảm bảo, không được
nâng cao, thì sự đa dạng và phát triển các dịch vụ sẽ không có ý nghĩa khi không được
khách hàng chấp nhận sử dụng. Mặt khác sự cạnh tranh về dịch vụ giữa các ngân hàng
ngày càng được nâng lên và mỗi ngân hàng càng cố gắng giữ vững thị phần của từng
loại dịch vụ. Để đạt được mục tiêu đó, ngoài việc đa dạng dịch vụ, nghiệp vụ
Marketing, uy tín và thương hiệu của ngân hàng, quy mô và mạng lưới của ngân hàng
còn tùy thuộc vào chất lượng dịch vụ của từng ngân hàng.
Một sản phẩm dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao là sản phẩm dịch vụ đem lại
lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng nhưng trước hết phải xuất phát từ lợi ích của
khách hàng. Sản phẩm dịch vụ đó phải đáp ứng được tốt nhất nhu cầu mong muốn của
khách hàng. Việc nâng cao chất lượng của sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, tạo cho nó
tính hấp dẫn vượt trội so với đối thủ cạnh tranh là rất cần thiết cho các ngân hàng vì nó
không chỉ giúp duy trì khách hàng mà còn thu hút thêm khách hàng mới.
Do vậy, khi đánh giá chất lượng của một sản phẩm dịch vụ ngân hàng, ta thường
căn cứ trên các tiêu chí sau:
-
Thời gian xử lý yêu cầu của khách hàng: Ngân hàng nào có tốc độ xử lý giao
dịch nhanh, thời gian cung ứng dịch vụ so với các ngân hàng khác thấp thì sẽ
chiếm ưu thế vượt trội hơn các ngân hàng khác về chất lượng dịch vụ.
-
Phí giao dịch: Phần lớn lợi nhuận của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là từ phí dịch
vụ, nếu ngân hàng đặt phí dịch vụ cao thì sẽ thu được lợi nhuận cao nhưng sẽ
khó cạnh tranh với các ngân hàng khác. Khách hàng có xu hướng chọn những
25
ngân hàng có mức phí dịch vụ hợp lý mà vẫn đảm bảo chất lượng. Vì vậy, ngân
hàng cần phải cung cấp các dịch vụ tiện ích, chất lượng cao với giá hợp lý.
-
Tính chính xác, an toàn: Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động
chứa nhiều rủi ro, do đó để đánh giá sự phát triển của mảng hoạt động nào đó,
người ta luôn quan tâm tới tính chính xác, an toàn. Tính chính xác, an toàn
trong việc cung cấp DVNHBL thể hiện ở việc tối thiểu các lỗi khi giao dịch với
khách hàng và bảo mật các thông tin khách hàng, an toàn trong việc ứng dụng
các công nghệ hiện đại. Do đó, tính chính xác an toàn trong việc sử dụng các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng là một tiêu chí đánh giá chất lượng sản phẩm
dịch vụ ngân hàng.
-
Sự hài lòng của khách hàng: Sự hài lòng của khách hàng được thể hiện thông
qua việc đánh giá của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Việc đánh
giá từ phía khách hàng là khách quan và là cơ sở để hoàn thiện, phát triển các
dịch vụ ngân hàng. Do vậy, kỹ năng giao tiếp với khách hàng cũng như việc tối
thiểu hóa những lời phàn nàn, khiếu kiện từ phía người sử dụng đối với ngân
hàng sẽ giúp ngân hàng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
1.4 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ CỦA
CÁC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
1.4.1 Sacombank – ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam
Ngân hàng Sacombank được Tạp chí The Asian Banker trao giải “Ngân hàng
bán lẻ tốt nhất Việt Nam” năm 2012. The Asian Banker trao giải này dựa trên tiêu chí
là ngân hàng đã tạo được doanh thu bán lẻ tăng vọt và dẫn đầu tất cả các ngân hàng tại
Việt Nam (kể cả ngân hàng quốc tế và nội địa) về lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
và tăng trưởng về số lượng khách hàng.
Kinh nghiệm từ Sacombank cho thấy: Chất lượng dịch vụ được nâng cao và
thời gian chấp thuận các khoản tín dụng ngắn hơn đã giúp ngân hàng Sacombank được
đánh giá là có khả năng xử lý công việc ưu việt hơn so với các ngân hàng khác. Đồng
thời, ngân hàng này cũng đã xây dựng được hệ thống kiểm soát rủi ro rất thành công
và xem đây cũng là một chỉ số để đánh giá khả năng làm việc của nhân viên.
Sacombank đã phát triển đội ngũ tư vấn để hỗ trợ trở thành ngân hàng đi đầu trên thị
trường trong một số lĩnh vực, đặc biệt là cho vay mua nhà, cho vay kinh doanh và thẻ
tín dụng. Ngoài ra, Sacombank cũng không ngừng giới thiệu những sản phẩm, dịch vụ
26
ngân hàng cập nhật nhất như: Tài khoản Hoa lợi, Tài khoản thanh toán Imax, Tiết
kiệm Phù Đổng, tài khoản Âu Cơ. Cùng với việc đầu tư lớn vào quản trị rủi ro, ngân
hàng này đã triển khai nhiều quy trình và hệ thống mới. Bất chấp lạm phát cao, tăng
trưởng tín dụng nóng và khủng hoảng tài chính, chất lượng quản trị rủi ro của
Sacombank được đánh giá tốt. Sacombank cũng chủ động tăng cường lực lượng bán
hàng và đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo và chuyên môn hoá đội ngũ nhân viên.
Phân khúc dịch vụ tự phục vụ như internet banking và ATM của Sacombank được mở
rộng, nhiều tiện ích mới như chuyển tiền liên ngân hàng qua thẻ, thẻ quà tặng Visa
Lucky Gift, thẻ trả trước quốc tế Sacombank Union Pay…đã thu hút thêm nhiều đối
tượng khách hàng sử dụng. Việc bổ sung thêm máy ATM với nhiều chức năng hơn và
chất lượng cao hơn của trung tâm chăm sóc khách hàng đã mở rộng quy mô của ngân
hàng một cách đáng kể.[22]
1.4.2 Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) – Ngân hàng của mọi nhà
Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành NHTM cổ
phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam vào thời
điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và
nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân hàng
mới thành lập như ACB
ACB đã từng bước xây dựng cho mình một chiến lược hoạt động khác biệt hóa
qua các năm trên cơ sở hiểu biết nhu cầu của khách hàng và luôn hướng tới khách
hàng. Đồng thời, ACB xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro đồng bộ, hiệu quả
chuyên nghiệp để đảm bảo tăng trưởng bền vững, từ đó trở thành một định chế tài
chính vững mạnh.
Với định hướng đa dạng hoá sản phẩm và hướng đến khách hàng để trở thành
ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam, ACB hiện đang thực hiện đầy đủ các chức
năng của một ngân hàng bán lẻ. Danh mục sản phẩm của ACB rất đa dạng tập trung
vào các phân đoạn khách hàng mục tiêu bao gồm cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Sau khi triển khai thực hiện chiến lược tái cấu trúc, việc đa dạng hoá sản phẩm, phát
triển sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng đã trở
thành công việc thường xuyên và liên tục. Các sản phẩm của ACB luôn dựa trên nền
tảng công nghệ tiên tiến, có độ an toàn và bảo mật cao.
Trong huy động vốn, ACB là ngân hàng có nhiều sản phẩm tiết kiệm cả về nội
tệ lẫn ngoại tệ và vàng thu hút mạnh nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Các sản phẩm