Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 128 trang )
17
Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ thứ 20, trong bối cảnh nền kinh tế và đời sống xã
hội nước ta bị tác động mạnh mẽ bởi cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới, sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Đại hội VII đã kịp thời và sáng
suốt đề ra những đường lối, chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện nền kinh tế,
tiến hành CNH-HĐH đất nước, được cụ thể hoá bằng Chiến ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội 1991 - 2000. Hàng loạt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
được triển khai được triểnkhai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó có
chính sách phát triển KCN, KCX với sự ra đời của KCX Tân Thuận tại Thành Phố
Hồ Chí Minh (1991) và việc ban hành Quy chế KCX (Nghị định 322/HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng ngày 18/10/1991) và Quy chế KCN (Nghị định 192/CP của Chính
Phủ ngày 28/12/1994).
Tiếp đó, định hướng chiến lược về quy hoạch phát triển và phân bố KCN,
KCX được xác định cụ thể tại Nghị quyết Đại hội VIII (1996): "Hình thành các KCN
tập trung (bao gồm cả KCX và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc
xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven
đô thị. Ở các thành phố, Thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có,
đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài Thành Phố, hạn chế việc
xây dựng các KCN mới xen lẫn với dân cư"
Báo cáo Chính trị Đại hội IX (năm 2001) về chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010 tiếp tục khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý trên cả nước. Phát
triển cơ hiệu quả các KCN, KCX, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành
các cụm công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở". Báo cáo chính trị tại Đại hội X
(năm 2006) một lần nữa khẳng định chủ trương "Phát triển một số khu kinh tế mở và
đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các KCN, KCX", đồng thời nhấn mạnh chủ
trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong đó có phát triển bền
vững KCN, KCX.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XI (năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng phát triển KCN, KCX bền vững và theo chiều
sâu: "Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các khu, cụm công
nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản
phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao". Chiến lược phát
18
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đặt ra mục tiêu đến năm 2020 "... tất cả các cụm,
KCN, KCX có hệ thống xử lý nước thải tập trung"
Các Nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình
thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN, KCX; khẳng
định vai trò của KCN, KCX là một trong những nền tảng quan trọng để thực hiện
mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại như Nghị quyết Đại hội X và XI đã nêu rõ. Đồng thời, chủ trương của Đảng là cơ
sở để Chính Phủ triển khai xây dựng quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát
triển KCN, KCX trong 20 năm qua và trong giai đoạn tới.
1.5.2 Quá trình hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam
Từ khi KCX đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm 1991 (KCX Tân
Thuận - Thành Phố Hồ Chí Minh), qua 20 năm xây dựng và phát triển, cả nước đã có
283 KCN được thành lập ở 58 tỉnh, thành phố với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ
76.000 ha, trong đó gần 46.000 ha đất công nghiệp có thể cho thuê, chiếm khoảng 61
% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó 180 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện
tích đất tự nhiên 43.580 ha và số còn lại đang trong giai đoạn bồi thường giải phóng
mặt bằng và xây dụng cơ bản. Tính đến 12/2011 các KCN cả nước đã thu hút được
4.113 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đạt 59,6 tỷ USD và 4.681 dự
án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký gần 420 ngàn tỷ đồng (chưa tính vốn đầu tư
trong và ngoài nước đối với kết cấu hạ tầng KCN.
1.5.3 Tình hình hoạt động của các KCN Việt Nam thời gian qua
1.5.3.1 Kết quả đạt được trong 20 năm xây dựng và phát triển KCN.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, các KCN, KCX là
một trong giải pháp thực hiện các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội đất nước qua từng giai đoạn. Trải qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển
(1991 - 2011), các KCN, KCX ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, thể hiện ở những kết quả
chủ yêu sau:
Hình thành hệ thống các KCN, KCX trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước; chiến lược, quy hoạch, ngành địa phương và
vùng lãnh thổ.
19
Tính đến 12/2011, cả nước đã có 283 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự
nhiên 76.000 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 46.000
ha, chiếm khoảng 61 % tổng diện tích đất tự nhiên. Các KCN được thành lập trên 58
tỉnh, thành phố trên cả nước; được phân bố trên cơ sở phát huy lợi thế kinh tế, tiềm
năng của các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời phân bố ở mức độ hợp lý một số
KCN ở các vùng có điều kinh tế - xã hội khó khăn hơn nhằm tạo điều kiện cho ngành
công nghiệp địa phương từng bước phát triển.
Quy mô các KCN, KCX đa dạng và phù hợp với điều kiện và trình độ phát
triển cụ thể của mỗi địa phương. Quy mô trung bình của các KCN, KCX đến
12/2011 là 268 ha. Các vùng có điều kiện tương đối khó khăn, ít có lợi thế phát triển
công nghiệp có quy mô KCN, KCX trung bình thấp hơn so với các vùng khác, như
vùng Trung du và vùng miền núi phía Bắc (154,9 ha), tây nguyên (157,6 ha); vùng
Đông Nam Bộ có quy mô KCN trung bình cao nhất (378,3 ha).
Các KCN, KCX được thành lập và phát triển phù hợp với mục tiêu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 là giai đoạn đầu
và thí điểm phát triển KCN, KCX, số lượng các KCN, KCX được thành lập trong
giai đoạn này là 12 KCN, KCX với tổng diện tích tự nhiên 2.360 ha. Sau giai đoạn
này, việc thành lập các KCN, KCX được đẩy nhanh, cụ thể trong kế hoạch 5 năm
1996 - 2000 thành lập 53 KCN, KCX với tổng diện tích tự nhiên 9.706,12 ha, tăng
4,4 lần về số lượng và 4,1 lần về diện tích so với kế hoạch 5 năm 1991 - 1995; kế
hoạch 5 năm 201 - 2005 thành lập thêm 66 KCN với tổng diện tích 13,140,4 ha, tăng
24,5 % về số lượng và 35,4 % về diện tích so với kỳ kế hoạch trước; kế hoạch 5 năm
2006 - 2010 thành lập thêm 136 KCN với tổng diện tích tăng thêm 46.408 ha, tăng 2
lần về số lượng và 3,5 lần diện tích só với kỳ kế hoạch trước.
Các KCN, KCX được hình thành và phát triển phù hợp với quy hoạch xây
dựng và phát triển KCN, KCX cả nước cũng như quy hoạch sử dụng đất và phát triển
công nghiệp của địa phương. Phần lớn các KCN, KCX thuộc danh mục các KCN,
KCX ưu tiên thành lập đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã được
thành lập và đi vào hoạt động. Quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020 được phê duyệt tại Quyết định 11107/QĐ-TTg
ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ đang từng bước được triển khai một cách
20
linh hoạt, vừa thực hiện các KCN đã có trong Quy hoạch vừa rà soát, điều chỉnh bổ
sung thêm các KCN theo điều kiện, nhu cầu phát triển của các điạ phương. Theo kế
hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) và Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đã
được Quốc hội khoá VIII phê duyệt, tổng diện tích đất KCN đến năm 2015 là
130.000 ha và đến năm 2020 dự kiến là 200.000 ha.
KCN, KCX đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Trong 20 năm qua, với các chính sách ưu đãi, những điều kiện thuận lợi về kết
cấu hạ tầng và thủ tục hành chính giản đơn, các KCN, KCX đã trở thành điểm đến
háp dẫn với các Nhà đầu tư, đặc biệt là các Nhà đầu tư nước ngoài. Số dự án và tổng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được tăng lên trong gioai đoạn đầu (1991 - 1995) và
đặc biệt được tăng trưởng tốc độ cao trong kỳ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 và 2001 2005. Nếu trong kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, khi các KCN, KCX đang trong quá
trình triển khai xây dựng, số dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được
mới đạt 155 dự án với tổng số vốn đăng ký 1,55 tỷ USD, thì trong kế hoạch 5 năm
1996 - 2000, số dự án tăng thêm đạt 588 dự án với tổng số vốn đầu tư tăng thêm đạt
7,2 tỷ USD, tăng gấp 3,8 lần về số dự án và 4,65 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký só
với kế hoạch 5 năm 1991 - 1996, số dự án tăng thêm trong kế hoạch 5 năm 2001 2005 là 1.377 dự án với tổng số vốn đầu tu tăng thêm đạt 8,1 tỷ USD, tăng gấp 2,34
lần về số dự án và 12 % về tổng số vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.
Số dự án và tổng vốn đầu tư tăng thêm trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là 1.860
dự án và 36,8 tỷ USD, tăng 1,35 lần số dự án và 4,5 lần vốn đầu tư so với kỳ kế
hoạch trước.
Tính đến 12/2011, các KCN, KCX đã thu hút được 4.113 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 59,6 tỷ USD (chưa tính
vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phat triển kết cấu hạ tầng KCN, KCX). Hàng
năm vớn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX chiếm từ 35 - 40 % tổng số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng thêm của cả nước. Nếu xét riêng về thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp thì các dự án đầu tư trực tiếp nước
21
ngoài sản xuất công nghiệp trong KCN, KCX chiếm gần 80 % tổng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp cả nước.
Riêng trong năm 2011, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào
các KCN, KCX đạt 6,47 tỷ USD; tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 7,28 tỷ USD; tương
đương 44 % và 67 % tổng vốn FDI đăng ký và thực hiện của cả nước trong năm
2011.
Ngoài những đóng góp đáng kể trong thu hút đầu tư nước ngoài, KCN, KCX
còn là một trong những giải pháp để thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các
thành phần kinh tế trong nước. Nếu như trong kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, chỉ có
gần 50 dự án đầu tư trong nước đầu tư vào các KCN, KCX, thì đến kế hoạch 5 năm
1996 - 2000 số dự án trong nướcđã tăng thêm đạt 450 dự án, tăng 9 lần so với kế
hoạch 5 năm 1991 - 1995, kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 thu hút được 1.870 dự án,
tăng gấp 4,16 lần so với kỳ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000; kế hoạch năm 2006 - 2010
thu hút được 2.010 dự án, tăng 7,5 % so với kỳ kế hoạch 5 năm trước. Tổng vốn đầu
tư trong nước tăng thêm tương ứng trong các thời kỳ kế hoạch là 200 tỷ đồng (1991 1995), 35.000 tỷ đồng (1996 - 2000), 80.000 tỷ đồng (2001 - 2005) và 218.860 tỷ
đồng (2006 -2010). Trong các kỳ kế hoạch 5 năm, xu hướng gia tăng đầu tư trong
nước vào KCN, KCX ngày càng rõ rệt, đặc biệt là từ năm 2004, số dự án trong nước
còn hiệu lực đầu tư vào các KCN, KCX đã vượt số dự án đầu tư nước ngoài. Đến
cuối tháng 12/2011, có 4.681 dự án trong nước còn hiệu lực trong KCN, KCX với
tổng vốn đầu tư xấp xỉ 420.000 tỷ đồng (chưa tính vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KCX).
Tổng vốn đầu tư trong và ngoài nước vào KCN tương đương 80 tỷ USD, trung
bình 3,5 triệu USD/ha đất công nghiệp đã cho thuê, cao hơn tỷ lệ tương tự vào thời
điểm cuối năm 2005 (gần 2 triệu USD/ha) và cuối năm 2001 (1,2 triệu USD/ha)
Trong thời kỳ 2001 - 2005, các KCN, KCX đã cho thuê thêm được khoảng
7.000 ha đất công nghiệp; thời kỳ 2006 - 2010 đã cho thuê thêm được 11.600 ha. Tỷ
lệ lấp đầy các KCN, KCX đã vận hành tăng đều hàng năm từ 40 % năm 1996 lên 55
% năm 2001 lên 65 % năm 2010. Tính đến 12/2011, tổng diện tích đất công nghiệp
có thể cho thuê của các KCN đang vận hành khoảng 30.000 ha, trong đó đã cho thuê
được 19.300 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 65 %.
22
KCN, KCX đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị
lâu dài, góp phần hiện đại hoá hệ thống kế cấu hạ tầng trên cả nước
Một trong những yêu cầu then chốt của quá trình CNH đất nước là xây dựng và
nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Các KCN, KCX chính là một trong
những điểm đột phá. Các nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN, KCX huy động vốn
xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, KCX để kết nối đồng bộ với kết cấu hạ tầng ngoài
hàng rào KCN, KCX, vừa có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư thứ cấp
trong việc triển khai nhanh dự án sản xuất, kinh doanh, vừa góp phần cải thiện hệ
thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng nông thôn của các địa phương phục vụ tích
cực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và cả nước.
Đến 12/2011, tổng số vốn đầu tư kết cấu hạ tầng của 283 KCN vào khoảng 9,5
tỷ USD. Hình thức đầu tư xây dựng cơ sơ hạ tầng đa dạng và phù hợp với điều kiện
thực tế của từng địa phương. Trong 283 KCN đã thành lập có 31 KCN do doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm chủ đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 2 tỷ
USD. Các KCN còn lại do tổ chức kinh tế trong nước làm chủ đầu tư với tổng vốn
đầu tư 7 tỷ USD, trong đó khoảng 50 KCN do các Công ty phát triển hạ tầng KCN
hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu làm chủ đầu tư với tổng số vốn đầu
tư kết cấu hạ tầng khoảng 1,5 tỷ USD; còn lại là các KCN do Doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đầu tư kết cấu hạ tầng. Nhìn chung KCN, KCX
được đầu tư theo hướng phát huy nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, trong đó có
khu vực kinh tế có vốn đâu tư nước ngoài và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là
chủ yếu. Hình thức các đơn vị sự nghiệp có thu làm chủ đầu tư hạ tầng KCN, KCX
được áp dụng ở những địa phương ít lợi thế và điều kiện phát triển công nghiệp,
nhằm sử dụng nguồn vốn Nhà nước hỗ trợ một phần cho xây dựng kết cấu hạ tầng
một số KCN thời gian đầu, làm cơ sở huy động các nguồn vốn khác.
Trên phạm vi cả nước, đến cuối tháng 12/2011, trong tổng số 283 KCN đã
thành lập, có 180 KCN đã đi vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư kết cấu hạ tầng
đăng ký là 5,3 tỷ USD, vốn thực hiện đạt gần 3,2 tỷ USD; còn lại 103 KCN đang
trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Tại các địa phương
đã hoàn thành việc xây dựng KCN, KCX, kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX
được đầu tư đồng bộ và hiện đại đã góp phần đáng kể hiện đại hoá hệ thống kết cấu
23
hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần thay đổi diện mạo của địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đẩy mạnh thu hút đầu tư vào KCN, KCX.
Một kết quả đáng ghi nhận là qua 20 năm xây dựng và phát triển các KCN,
KCX ở Việt Nam, đã hình thành một đội ngũ doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN,
KCX trong nước có năng lực tài chính, quản lý , có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh
vực xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN tại một số địa phương Vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc như Thành Phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dương, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương.
KCN, KCX có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng ngành sản xuất công
nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế qua đó góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và cả nước theo hướng CNH,
HĐH
Trong những năm qua, các KCN, KCX đã minh chứng là một công cụ hữu hiệu
để thu hút các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp thực hiện mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH trong phạm vi địa phương và
trong cả nước.
Thực tế 20 năm xây dựng và phát triển cho thấy, các KCN, KCX đã có những
đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong
GDP của cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX đều tăng dần
qua các năm, đặc biệt trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 và 2001 - 2006, tốc độ gia
tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong KCN, KCX đều vượt so với tốc độ gia tăng
giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các
KCN, KCX thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng
20%/năm (tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân trên cả nước đạt 12%). Giá trị
sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX tạo ra trong thời kỳ 2001 - 2005 đạt
khoảng 44,4 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm; trong thời kỳ 2006 - 2010
đạt khoảng 125 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm (tốc độ tăng trưởng công nghiệp
bình quân cả nước trong 2 thời kỳ đạt khoảng 15 - 16 %). Tỷ trọng giá trị sản xuất
công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể theo các năm: Từ mức khoảng 8%/năm 1996
lên 14% năm 2000, 28% năm 2005 và 32% vào năm 2010.
24
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN, KCX trên thị trường thế giới được
nâng cao đáng kể trong thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp KCN, KCX tăng đều qua các năm từ 1996 trở lại đây (từ năm 1991 - 1996,
giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX không đáng kể do các KCN,
KCX và các doanh nghiệp mới hình thành và đi vào hoạt động. Tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996 2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm. Trong kế hoạch 5 năm 2001
- 2006, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX đạt trên 22,3 tỷ USD,
tăng bình quân khoảng 24%/năm, cáo hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất
khẩu công nghiệp của cả nước (đạt bình quân khoảng 18%/năm). Trong kế hoạch 5
năm 2006 - 2010, các KCN, KCX xuất khẩu 63,7 tỷ USD, tăng 2,85 lần so với kỳ kế
hoạch trước và tăng bình quân khoảng 32%/năm trong khi đó tốc độ tăng trưởng kim
nghạch xuất khẩu bình quân cả nước khoảng 12,7 %/năm. Đặc biệt trong hai năm
2009, 2010 đã có sự xuất siêu nhẹ trong các KCN, KCX với chênh lệch xuất khẩu và
nhập khẩu gần trên 500 triệu USD. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp
KCN, KCX trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng
15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005 và 25% năm 2010. Cùng với việc gia tăng
tỷ trọng công nghiệp chế biến trong cơ cấu xuất khẩu, các doanh nghiệp KCN cũng
góp phần tạo nguồn hàng để cung cấp cho nhu cầu trong nước, giảm gánh nặng nhập
khẩu hàng hóa từ bên ngoài.
Các doanh nghiệp KCN, KCX bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách
Nhà nước, trong thời kỳ 2001 - 2005 nhiều doanh nghiệp KCN đã hết thời gian được
hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế nên tổng giá trị nộp ngân sách của các doanh nghiệp
KCN, KCX tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, gấp 6 lần so với kế hoạch 5 năm
1996 - 2000. Trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, các KCN, KCX nộp ngân sách 5,9
tỷ USD, gấp 3 lần so với kỳ kế hoạch trước.
Nếu tính bình quân 1 ha đất công nghiệp có thể cho thuê trong năm 2011, các
KCN đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp 2 triệu USD/năm; giá trị xuất khẩu 1,27
triệu USD/ha; nộp ngân sách khoảng 1,38 tỷ đồng/ha. Trung bình 1 ha đất công
nghiệp đã cho thuê đã tạo việc làm cho 77 lao động trực tiếp. Như vậy, nếu so sánh
25
các chỉ tiêu đầu tư, giá trị sản xuất, xuất khẩu, tạo việc làm trên 1 ha đất của các
KCN so với đất nông nghiệp thì có thể thấy rõ hiệu quả và đóng góp nổi bật của
KCN.
Các KCN, KCX ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động
rất tích cực tới việc phát triển các cơ sơ nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình
dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả
tổng hợp của các ngành sản xuất.
Không ít vùng nông thôn nghèo, đất đai sinh lầy, hoang hóa, it có khả năng
sinh lợi, sau khi xây dựng KCN, KCX, thu hút được các nhà đầu tư kinh doanh, đã
trỡ nên sầm uất, đời sống kinh tế - xã hội trong vùng được nâng cao rõ rệt.
Các KCN, KCX đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập, đời sống và trình độ của người lao động
Trong điều kiện nước ta hiện nay còn nhiều người trong độ tuổi lao động thiếu
việc làm ổn định đặc biệt là ở khu vực nông thôn, việc thu hút một lực lương lớn lao
động vào các KCN, KCX, trong đó có một phần đáng kể lao động nông thôn dư thừa
là một đóng góp lớn về mặt xã hội của các KCN, KCX.
Lực lượng lao động trong KCN, KCX gia tăng cùng với sự gia tăng các KCN,
KCX và các dự án hoạt động trong KCN, KCX. Trong thời kỳ 2001 - 2005, các
KCN, KCX đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so với thời
kỳ trước (1991 - 2000). Từ năm 2006 - 2010, lực lượng lao động trong KCN, KCX
tăng thêm được gần 760.000 người, gấp 1,15 lần lượng lao động tăng thêm trong thời
kỳ kế hoạch 2001 - 2006. Tính đến 12/2011 các KCN, KCX đã giải quyết việc làm
cho hơn 1,76 triệu lao động trực tiếp.
KCN, KCX là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công
nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do đó KCN, KCX
góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam để hình thành đội ngũ lao động của
nền công nghiệp hiện đại. Đến nay, nhiều trường Cao đẳng hoặc cơ sở dạy đào tạo
công nhân làm việc trong KCN đã được xây dựng. Đặc biệt đã hình thành mô hình
liên kết đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực giữa các KCN và Nhà trường, góp phần
quan trọng giải quyết tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật hiện nay.
26
Đến nay, trong số các dự án đầu tư xây nhà ở cho người lao động KCN, KCX
được đang ký tại địa phương, đã có 24 dự án được khởi công với tổng vốn đầu tư
khoảng 2.600 tỷ đồng, tổng diện tích sàn 753.000 m2, góp phần giải quyết chổ ở cho
khoảng 125.000 công nhân lao động tại các KCN. Đã xuất hiện một số điển hình tốt
về việc các doanh nghiệp bảo đảm nhà ở cho người lao động; một số doanh nghiệp
KCN đã bắt đầu cung cấp nhà ở cho công nhân với chất lượng ddur đáp ứng tiêu
chuẩn. Hiện Nhà nước, các Công ty kinh doanh bắt động sản và doanh nghiệp đáp
ứng được khoảng 10% nhu cầu về số lượng nhà ở của người lao động tại các KCN.
KCN, KCX đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện
tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng khó
kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất. KCN,
KCX góp phần thực hiện mực tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đô, do đó góp
phần giải quyết ô nhiễm đô thị, xử lý tập trung ô nhiễm.
Trong thời gian gần đây, nhận thức của các cơ quan quản lý Nhà nước và
doanh nghiệp KCN, KCX về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đã được cải
thiện. Đến 12/2011, trong tổng số KCN đã vận hành có 118 KCN có hệ thống xử lý
nước thải tập trung, chiếm 65% tổng số KCN đã vận hành và hơn 30 KCN đang xây
dựng công trình xử lý nước thải tập trung.
So với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, tỷ lệ các KCN có công
trình xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành đã tăng lên đáng kể (khoảng 25% so
với năm 2006). Một số vùng, các KCN có nhà máy xử lý nước thải cũng nhu các
doanh nghiệp đấu nối vào nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tỷ lệ cao như vùng
đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ.
Thực tế cho thấy một số KCN, KCX thực hiện rất tốt và hài hoà mục tiêu thu
hút đầu tư với giải quyết vấn đề về môi trường, thực sự là những "Công viên công
nghiệp", là mẫu hình để các KCN, KCX khác triển khai áp dụng, điển hình là KCN
Thăng Long, KCN Long Hậu, KCN Việt Nam - Singapor.
Cơ chế, chính sách, mô hình quản lý về KCN, KCX từng bước được hoàn thiện
Quá trình phát triển KCN, KCX gắn liền với quá trình đổi mới, hoàn thiện cơ
chế, chính sách, mô hình quản lý đầu tư nói chung và KCN, KCX nói riêng. Từ Quy
27
chế KCX theo Nghị định 322/HĐBT ngày 18/10/1991 của Hội đồng Bộ trưởng và
Quy chế KCN theo Nghị định 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính Phủ đến Quy chế
quản lý KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 là
một bước tiến quan trọng trong hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước đối
với KCN, KCX. Các Quy định tại Nghị định 36/CP đã bao quát nhiều khía cạnh
trong thực tiễn hoạt động của KCN, KCX như cơ chế xây dựng, kinh doanh hạ tầng;
quyền hạn, trách nhiệm của Ban quản lý KCN, KCX; quy định phát triển KCN, KCX
theo quy hoạch và cơ chế, chính sách thống nhất trên cả nước. Các văn bản pháp quy
này đã khẳng định chủ trương xây dựng KCN, KCX thành một mô hình đột phá để
đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước qua việc áp dụng những chính sách mới,
mang tính đặc thù về cơ chế ưu đãi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bước đầu triển
khai cơ chế uỷ quyền cho Ban quản lý KCN, KCX thực hiện quản lý Nhà nước đối
với KCN, KCX trên các lĩnh vực.
Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính Phủ quy định về KCN,
KCX, KKT đã tiếp tục hoàn thiện thêm một bước cơ chế, chính sách, đối với KCN,
KCX. Nghị định đã thống nhất các quy định liên quan tới KCN, KCX nằm rải rác ở
các văn bản pháp luật trước đây vào một văn bản. Nghị định đã cụ thể hoá chủ
trương tăng cường phân cấp, uỷ quyền cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý KCN,
KCX, KKT thực hiện đầu mối quản lý Nhà nước KCN, KCX, KKT trên các lĩnh
vực đầu tư, xây dựng, lao động, môi trường, thương mại...vv thực hiện triệt để cải
cách hành chính theo mô hình "Một cửa, tại chỗ"
Quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX 20 năm qua gắn liền với việc xây
dựng mô hình quản lý và hoạt động của các KCN, KCX tương đối đặc thù, mang
tính đột phá, đặc biệt là: cơ chế xây dựng, kinh doanh hạ tầng KCN, cho thuê, thuê
lại, đất KCN, vai trò của Công ty phát triển hạ tầng KCN; sự hình thành, từng bước
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của Ban quản lý các KCN, thể hiện vai trò
đầu mới quản lý Nhà nước KCN ở địa phương; trình tự thủ tục thành lập, hoạt động,
đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN, KCX. Trên thực tế, thành công của các
KCN, KCX mang dấu ấn đậm nét của việc mạnh dạn thử nghiệm và triển khai áp
dụng có hiệu quả các cơ chế, chính sách, mô hình hoạt động riêng cho KCN, KCX.