Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 128 trang )
33
các doanh nghiệp trong nước chỉ cung cấp được 3% nguyên liệu và hàng hóa trung
gian cho các doanh nghiệp trong KCX. Tỉ lệ này đã tăng lên 25% bốn năm sau đó và
dần dần là 44%. Để phát triển các mối liên kết này, Hàn Quốc đã xây dựng xung
quanh KCN các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu để hỗ trợ doanh nghiệp trong nước
nhanh chóng đáp ứng được các yêu cầu cao của doanh nghiệp nước ngoài.
Với Malaysia, sau một thời gian tập trung thu hút ĐTNN về mặt lượng,
chính phủ nước này đã có những chính sách cải cách mạnh mẽ từ giữa thập kỷ 1980
để thu hút đầu tư nước ngoài về mặt chất. Malaysia xây dựng một kế hoạch tổng thể
hướng đến việc phát triển sự liên kết giữa các công ty đa quốc gia (MNCs) và doanh
nghiệp trong nước.
Các chính sách được xây dựng đồng bộ, từ khuyến khích trao đổi nhà thầu
phụ để kết nối doanh nghiệp địa phương với MNCs, ưu đãi các công ty công nghệ
cao khi tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển được thực hiện bởi chính
người Malaysia, xây dựng Quỹ hỗ trợ kỹ thuật công nghiệp (ITAF) dành ưu đãi cho
các doanh nghiệp có sản phẩm chứa 50% hoặc hơn nguồn lực trong nước...vv, thậm
chí ban hành Luật phát triển nguồn nhân lực (năm 1992), theo đó các doanh nghiệp
nhỏ được giảm thuế đánh vào chi phí đào tạo.
1.6.2. Bài học kinh nghiệm phát triển KCN đối với Việt Nam
Về vấn đề xây dựng và triển khai quy hoạch
- Có thể thấy rằng các bước xây dựng, triển khai quy hoạch không có sự khác
biệt nhiều giữa Trung Quốc với Việt Nam. Tuy nhiên, so với Việt Nam, Trung Quốc
đã triển khai các bước xây dựng và thực hiện quy hoạch ở một trình độ cao hơn, thể
hiện ở các mặt cụ thể sau:
+ Việc triển khai xây dựng và thực hiện quy hoạch ở Trung Quốc được tiến
hành một cách nghiêm ngặt hơn: lấy ý kiến rộng rãi của các chuyên gia hàng đầu
trong lĩnh vực quy hoạch và tiếp thu được những ý kiến đó để nâng cao chất lượng
quy hoạch; quá trình triển khai có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý quy
hoạch trong từng khâu xây dựng và thực hiện quy hoạch; hệ thống thông tin quy
hoạch được cập nhật đầy đủ, các bước xây dựng, triển khai đều được ghi lại bằng hệ
thống phần mềm tự động hóa đảm bảo hạn chế tiêu cực.
34
+ Nhận thức, ý thức cao của các cấp quản lý Nhà nước, của các doanh nghiệp
và người dân về vai trò, tầm quan trọng của quy hoạch và chấp hành quy hoạch.
+ Đào tạo được một đội ngũ cán bộ quy hoạch có trình độ và trách nhiệm cao
để thực hiện công tác quản lý Nhà nước về quy hoạch.
+ Xây dựng một quy trình điều chỉnh Quy hoạch rất chặt chẽ, để hạn chế việc
điều chỉnh quy hoạch, chỉ điều chỉnh quy hoạch khi thực sự cần thiết.
+ Chế tài xử phạt vi phạm quy hoạch nghiêm minh.
Về lĩnh vực đất đai
- Giữa Việt Nam và Trung Quốc có những điểm khác biệt khá rõ trong vấn đề
sử dụng, cho thuê đất, cụ thể là:
+ Tại Trung Quốc, việc lựa chọn nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thậm chí
lựa chọn nhà đầu tư thuê lại đất được thực hiện qua hình thức đấu thầu công khai,
theo sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước.
+ Nhà nước Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ quy hoạch sử dụng đất, cơ cấu
ngành, lĩnh vực thu hút đầu tư vào đặc KKT; Nhà nước có vai trò hết sức tích cực và
chủ đạo trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.
- Từ thực tế vấn đề đất đai ở Trung Quốc có thể rút ra một số kinh nghiệm có
khả năng áp dụng ở Việt Nam như sau:
+ Xét về mặt kinh tế, việc đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng có thể xem xét áp dụng ở các KCN của Việt Nam thay vì việc địa phương tự lựa
chọn và chỉ định chủ đầu tư. Trước mắt có thể thực hiện thí điểm tại các KCN thuộc
địa bàn có điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư và cơ sở hạ tầng ngoài KCN hoàn
chỉnh.
+ Vai trò chủ đạo và quyết định của Nhà nước trong công tác giải phóng mặt
bằng là hết sức đúng đắn vì sẽ giải quyết được mâu thuẫn thường xảy ra giữa doanh
nghiệp và nhân dân trong đền bù, giải phóng mặt bằng. Hơn nữa, Nhà nước cần đứng
ra để giải quyết vấn đề việc làm và ổn định đời sống cho người dân bị mất đất.
+ Mô hình của Trung Quốc là chính quyền địa phương đứng ra tổ chức sản
xuất kinh doanh, cấp đất để các hộ dân bị thu hồi đất tham gia góp vốn cổ phần. Hình
35
thức này có thể áp dụng ở Việt Nam nhưng cần phải đảm bảo được các điều kiện
như: cần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp. Việc thành lập các
doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất do người dân tham gia quản lý như ở Trung Quốc
cũng phải phù hợp về trình độ, năng lực thực tế của người dân và điều kiện thực tế
của các KCN, KKT ở Việt Nam.
+ Nhà nước có thể không trả cho người dân toàn bộ tiền đền bù, nhưng việc
giữ lại phần tiền đền bù cũng cần phải có sự thỏa thuận của người dân về thời gian,
trường hợp tiền mất giá và phương án sử dụng phần tiền đó thế nào để đảm bảo ổn
định đời sống lâu dài cho người dân.
Về cơ chế, chính sách và mô hình quản lý đặc KKT, thành phố mở
- Việt Nam đang trong giai đoạn đầu phát triển KCN, KKT nên chưa thể áp
dụng chung chính sách thuế như ở Trung Quốc và cần thiết phải tiếp tục ưu đãi đầu
tư cho KCN, KKT.
- Việt Nam cần chú trọng tới định hướng thu hút đầu tư vào các KCN, KKT
ngay từ giai đoạn đầu và cần tuân thủ chặt chẽ hơn định hướng về cơ cấu đầu tư, lĩnh
vực đầu tư cho các KCN trên địa bàn để đảm bảo phân bố đầu tư một cách hợp lý
trên cơ sở lợi thế, tiềm năng của địa phương và tăng cường mối liên kết ngành trong
KCN, KKT ở Việt Nam, trong điều kiện nguồn vốn Nhà nước còn hạn chế thì việc
phát triển KKT cũng cần phải tập trung vào những KKT thuận lợi nhất để phát triển
hoàn thiện các KKT này, tạo động lực cho phát triển khu vực lân cận cũng như phát
triển các KKT tiếp theo trong giai đoạn sau.
- Về mô hình quản lý đặc KKT tại Trung Quốc hiện đã chuyển từ mô hình
thành lập riêng Ban quản lý đặc KKT sang giao cho chính quyền thành phố quản lý
đặc KKT. Việc chuyển cho UBND thành phố quản lý đặc KKT là phù hợp với việc
mở rộng đặc KKT với quy mô quá lớn tại Trung Quốc và thuận tiện hơn trong quản
lý đặc KKT thống nhất trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, hành chính, dân cư. Tại Việt
Nam, việc nghiên cứu phát triển KKT theo mô hình thành phố mở là cần thiết nhưng
cũng cần tính đến thời điểm phù hợp với trình độ, quy mô phát triển của các KKT
cũng như đội ngũ cán bộ địa phương.
36
Kinh nghiệm từ hai quốc gia này cho thấy mặc dù có nhiều khuyến khích tài
chính, có thể chế và cơ sở hạ tầng tốt, có thể thu hút nhiều dự án FDI, tạo việc làm và
tăng xuất khẩu, nhưng sự phát triển của các KCN không tự động đẩy mạnh các mối
liên kết hiệu quả giữa nhà cung ứng trong nước và Doanh nghiệp nước ngoài. Để làm
được điều này, cả hai quốc gia đều đã phải xây dựng thêm chính sách hỗ trợ, coi các
KCN là những hạt nhân quan trọng.
1.6. 3. Kinh nghiệm của một số KCN tại các tỉnh Việt Nam
1.6.3.1 Khu chế xuất và công nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh
Một là, quy hoạch KCN phải gắn liền với quy hoạch phát triển khu đô thị
nhằm phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng xã hội, dịch vụ phục vụ phát triển công
nghiệp và người lao động. Trong KCN cần phân khu chức năng, ngành nghề hợp lý.
Hạ tầng bên ngoài kết nối đến KCN phải được quy hoạch và xây dựng đồng bộ với
việc xây dựng và phát triển KCN.
Hai là, chọn lọc dự án đầu tư cho phù hợp với thế mạnh và xu hướng phát
triển của mình, sử dụng được nguồn lao động có chất xám tại chổ, cơ sơ hạ tầng và
dịch vụ phát triển. Chú trọng thu hút những dự án có công nghệ tiên tiến, giá trị tăng
cao, ít thâm dụng lao động, thân thiện với môi trường, các tập đoàn lớn để phát triển
các ngành công nghệ tiên tiến và tạo ảnh hưởng rộng kéo theo các Công ty vệ tinh
vào đầu tư trong KCN.
Ba là, xây dựng đầy đủ hạ tầng xã hội phục vụ người lao động. Khi xây dựng
KCN phải quy hoạch ngay từ đầu, chuẩn bị quỹ đất và giao trách nhiệm xây dựng, tổ
chức hoạt động thật rõ ràng. Đối với các KCN mới, phải dành đầy đủ đất để xây
dựng các hạ tầng xã hội.
Bốn là, cơ chế "Một cửa, tại chổ" có vai trò to lớn, quyết định trong việc xây
dựng và phát triển KCN; có tác dụng đơn giản tối đa các thủ tục hành chính, tiết
kiệm được rất lớn về thời gian, kinh phí và giảm thiểu phiền hà cho nhà đầu tư; giải
quyết nhanh những vấn đề phát sinh tại KCN. Do đó cơ chế "Một cửa, tại chổ" cần
phải được duy trì và phát huy đồng bộ hơn nữa để tạo ra sức hút mạnh mẽ cho nguồn
vốn đầu tư vào KCN.
Năm là, xây dựng vững mạnh hệ thống chính trị - xã hội (Tổ chức cơ sở Đảng,
Công đoàn, Đoàng TNCS Hồ Chí Minh) tại các KCN để tăng cường sự lãnh đạo của
37
Đảng; giải quyết hài hoà các mối quan hệ, lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và công
nhân; chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân; nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ tay nghề cho đội ngũ công nhân.
1.6.3.2 Các KCN tỉnh Bắc Ninh
- Công tác quy hoạch, xây dựng các KCN phải đảm bảo đồng bộ, hạ tầng kỹ
thuật, chuẩn bị đủ quỹ đất sạch để đón nhận đầu tư. Lựa chọn những nhà đầu tư hạ
tầng KCN có kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp cao.
- Công tác cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận
lợi, đồng thời tiết kịêm thời gian của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện.
- Thường xuyên đổi mới công tác xúc tiến đầu tư (chuyển từ đơn lẻ sang hình
thức xúc tiến đầu tư theo chuỗi các dự án; xây dựng mục tiêu các ngành nghề, lĩnh
vực, dự án cần xúc tiến đầu tư; xác định lĩnh vực mũi nhọn để thực hiện xúc tiến đầu
tư...vv). Chủ động xây dựng và thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư thích hợp,
phối hợp nhịp nhàng cùng với các đơn vị chủ đầu tư hạ tầng tăng cường công tác xúc
tiến đầu tư trong và ngoài nước.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại hình dịch vụ phụ trợ
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư như: Ngân hàng, Hải
Quan, Thông tin liên lạc...vv.
- Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực của tỉnh đảm bảo về số lượng và chất
lượng cung cấp cho các nhà đầu tư.
- Tích cực giám sát sau đầu tư, đảm bảo hỗ trợ tháo gỡ khó khăn vướng mắc
kịp thời cho doanh nghiệp, thực hiện tốt việc đảm bảo an ninh trật tự trong các KCN
và đồng hành cùng doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự án.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Xét trên mọi khía cạnh, các KCN đang ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng
trong quá trình tiến hành CNH - HĐH. Trước hết các KCN đã góp phần tạo ra một
lượng hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao; giải quyết việc làm cho
một bộ phận không nhỏ những người lao động ở khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là
lao động phổ thông ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; làm tăng kim ngạch
xuất khẩu và thu nhập quốc dân, ổn định đời sống kinh tế – xã hội. Thêm nữa, các
KCN còn là nơi góp phần tạo ra động lực cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển
38
dịch cơ cấu và phân công lại lao động trên phạm vi toàn xã hội, phù hợp với xu thế
hội nhập và cạnh tranh quốc tế; tận dụng và khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai,
nguyên liệu và con người, tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế .
Ngoài ra, thông qua phát triển các KCN, mà một hệ thống kết cấu hạ tầng mới
cả về mặt kinh tế và xã hội đã nhanh chóng được hình thành. Kết cấu hạ tầng về kinh
tế – kỹ thuật đã tác động đến quá trình hình thành và phát triển hạ tầng xã hội. Lợi
ích xã hội của quá trình phát triển KCN là không nhỏ, quá trình phát triển các KCN
đã làm khởi sắc bộ mặt kinh tế – xã hội của các địa phương có KCN. Vì vậy việc
hình thành các KCN là một đặc thù tất yếu của quá trình phát triển kinh tế của đất
nước.
Trong Chương 1, tác giả đã tiến hành phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về
phát triển các KCN trên Thế giới và ở Việt Nam; trình bày đường lối, mục tiêu phát
triển các KCN của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các nhân tố ảnh hưởng trong thực
tiễn phát triển các KCN của Việt Nam thời gian qua. Bên cạnh đó các bài học cụ thể
được đúc kết từ các KCN điển hình ở một số nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia
và KCX, CN Thành Phố Hồ Chí Minh, KCN Bắc Ninh đã được tổng kết thành các
kinh nghiệm cần vận dụng.
Việc phân tích cụ thể các nhân tố ảnh hưởng trong thực tiễn phát triển các
KCN ở Việt Nam thời gian qua cũng như các bài học kinh nghiệm trong phát triển
KCN ở nước ngoài nhằm làm tiền đề để vận dụng, phân tích một cách có hệ thống và
chọn lọc trong việc phân tích thực trạng phát triển các KCN thuộc KKT Đông Nam
tỉnh Nghệ An thời gian qua trong bối cảnh chung về phát triển các KCN trong cả
nước, từ đó đề ra các giải pháp phát triển các KCN thuộc KKT Đông Nam tỉnh Nghệ
An có cơ sở khoa học và thực tiễn trong thời gian tới.
39
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
THUỘC KHU KINH TẾ ĐÔNG NAM TỈNH NGHỆ AN
2.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ – XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN CÁC KCN TỈNH NGHỆ AN
2.1.1 Đối với tỉnh Nghệ An
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Nghệ An thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên 16.487
km2, dân số 3,03 triệu người, chiếm 5,1% diện tích tự nhiên và 3,64% dân số cả nước
(số liệu năm 2006). Về mặt hành chính, có 17 huyện (gồm 7 huyện đồng bằng ven
biển và 10 huyện miền núi) và 03 thành Phố, Thị Xã như Thành phố Vinh, Thị xã
Thái Hòa, Thị xã Cửa Lò. Nghệ An tiếp giáp với tỉnh Thanh Hoá ở phía Bắc, tỉnh Hà
Tỉnh ở phía Nam, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ở phái Tây với 419 km
đường biên giới trên bộ; bờ biển phía Đông dài 82 km; có tuyến đườc quốc lộ 1 A
Bắc - Nam đi qua dài 91 km, đường mòn Hồ Chí Minh chạy song song với quốc lộ 1
A dài 132 km, có các tuyến đường quốc lộ chạy từ phía Đông lên phía Tây nối với
nước bạn Lào thông quan của khẩu...vv là tỉnh nằm trong hành lang kinh tế Đông Tây nối liền Myanma - Thái Lan - Lào - Việt Nam. Vị trí này tạo cho Nghệ An có
vai trò quan trọng trong mới giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát
triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Là một tỉnh kinh tế chậm phát triển so với các tỉnh trong khu vực và cả nước,
việc phát triển kinh tế - xã hội đã được cấp ủy, chính quyền của tỉnh đặc biệt quan
tâm và đặt lên hàng đầu, đã có những biện pháp tích cực để khơi dậy những tiềm
năng nhằm từng bước cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh, sớm hòa nhập vào sự
phát triển chung của cả nước và thế giới.
Hiện nay, được sự hỗ trợ của các cơ quan Trung ương, tỉnh Nghệ An đã từng
bước điều chỉnh cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang
công nghiệp, du lịch và dịch vụ; ổn định diện tích cây trồng, tăng năng xuất và đẩy
mạnh chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp để xuất khẩu những sản phẩm mà tỉnh
có thế mạnh. Được Chính phủ cho phép thành lập Ban quản lý khu kinh tế Đông
40
Nam Nghệ An trên cơ sở sát nhập Ban quản lý các KCN đã mang lại những lợi ích
kinh tế cho quốc gia nói chung và địa phương nói riêng, tạo việc làm và nâng cao
mức sống của người dân trong khu vực.
2.1.1.2 Tiềm năng phát triển của tỉnh Nghệ An dự báo đến năm 2020
Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội dự kiến đến năm 2020, dân
số Nghệ An là 3,5 triệu người. Dân số nông thôn năm 2010 là 2,640 triệu người,
chiếm 83 % dân số toàn tỉnh; năm 2015 là 2,469 triệu người, chiếm 74 % dân số toàn
tỉnh; năm 2020 là 2,205 triệu người, chiếm 63 % dân số toàn tỉnh.
Theo quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm 2020, công
nghiệp của tỉnh cần có nhịp độ tăng trưởng khoảng 20,5 %/năm trong các năm 2011 2015 và 18,9%/năm trong các năm 2016 - 2020. Giá trị sản xuất công nghiệp theo
giá so sánh 1994, năm 2015 là 31.378,7 tỷ đồng và năm 2020 là 76.623 tỷ đồng,
tương ứng tính bằng giá thực tế là 140.012,2 tỷ đồng và 458.432,3 tỷ đồng.
Bản đồ 1: Bản đồ Hành chính tỉnh Nghệ An