1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC MẦM NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 132 trang )


Đất nước được hoàn toàn thống nhất, chúng ta có điều kiện thuận lợi hơn

để phát triển sự nghiệp giáo dục. Ở giai đoạn này, giáo dục Việt Nam cũng đã

đạt được một số kết quả nhất định, thống nhất được hệ thống giáo dục của hai

miền Nam – Bắc. Song do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền giáo dục

của chúng ta đã không khai thác triệt để bài học cực kỳ quý giá đó. Thay vì

thực hiện “sự quản lý giáo dục của Nhà nước”, chúng ta đã “Nhà nước hoá

giáo dục”, làm cho ngành giáo dục rơi vào thế đơn độc, không thu hút được

các nguồn lực của toàn xã hội. Do đó, cơ sở vật chất của giáo dục xuống cấp

và lạc hậu, động lực của người dạy và người học giảm sút, sự phát triển giáo

dục cả về số lượng và chất lượng đều không đáp ứng được yêu cầu phát triển

kinh tế – xã hội của đất nước.

Từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), đất nước chuyển

sang thời kỳ đổi mới, trong đó có giáo dục cũng đã bước vào một giai đoạn

phát triển thuận lợi. Đường lối đổi mới đã mở đầu cho sự phát triển mới trong

tư duy giáo dục. Giáo dục đứng trước thử thách buộc phát triển với một trình

độ mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Bài học lịch sử của sự

phát triển mới trong tư duy giáo dục, bài học lịch sử của sự phát triển giáo dục

được khơi dậy và nâng cao trên tầm tư duy mới. Đến Hội nghị lần thứ tư Ban

chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục

đào tạo, đã đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển nền

giáo dục Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Hội nghị toàn thể Ban chấp hành

Trung ương Đảng thảo luận và ra nghị quyết về sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

Cũng từ sau Đại hội lần thứ VII, trên các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các

tài liệu khoa học giáo dục, trên sách báo đối với các lĩnh vực hoạt động như

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, dân số - kế hoạch hoá gia đình, thể

dục thể thao, giáo dục và đào tạo,…chúng ta thường gặp thuật ngữ “Xã hội

hoá”. Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (tháng 6/1996)

đã khẳng định, “Xã hội hoá” là một trong những quan điểm để hoạch định hệ

thống các chính sách xã hội. Ngày 21/8/1997, Chính phủ đã ra Nghị quyết

90/CP về “Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y

6



tế, văn hoá”. Luật giáo dục năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua, ở chương I - “Những qui định chung”,

điều 12 ghi rõ: Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Để đẩy mạnh hơn nữa quá

trình xã hội hoá, ngày 19/8/1999, Chính phủ lại ban hành Nghị định số

73/1999/NĐ-CP về “Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt

động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao”. Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Giáo dục và đào tạo

phải thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”.

Cũng trong thời kỳ đổi mới này, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo

dục đã bàn luận nhiều về xã hội hoá giáo dục. Đặc biệt, tác giả Phạm Minh

Hạc đã viết nhiều tài liệu về xã hội hoá giáo dục, nhiều bài phát biểu chỉ đạo

phong trào xã hội hoá giáo dục. Trong cuốn “Xã hội hoá công tác giáo dục là

một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường

phát triển giáo dục nước ta” [20, Tr.16], trong cuốn “Giáo dục Việt Nam

trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, tác giả Phạm Minh Hạc một lần nữa

khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước, mà là của

toàn xã hội: Mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương

và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn

dân” [19, Tr. 330].

Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn “Xã hội hoá công tác giáo dục” đã

làm rõ nội hàm khái niệm xã hội hoá công tác giáo dục và coi xã hội hoá là

một khái niệm đã vận động trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam,

qua mỗi giai đoạn, khái niệm đó lại được phát triển thêm, nội hàm phong phú

hơn. Trong lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục trong

công cuộc đổi mới” Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh “Phát triển giáo dục theo

tinh thần xã hội hoá”. Ông đề cao việc huy động toàn dân vào sự nghiệp cách

mạng, coi đó là một tư tưởng chiến lược của Đảng, “Tư tưởng đó được tổng

kết lại không chỉ là một bài học kinh nghiệm tầm cỡ lịch sử, mà trở thành một

nguyên lý của cách mạng Việt Nam”. Tư tưởng “xã hội hoá giáo dục” được

thừa nhận như là một nhân tố mới trong sự phát triển giáo dục hiện nay. Hơn

7



thế, “Với tư cách là nhân tố mới của sự phát triển để xuất hiện những nhân tố

mới khác trong quá trình vận động đi lên của các phong trào giáo dục.

Những điều kiện đó chính là những kinh nghiệm rút ra từ thực tế sinh động

của giáo dục, trên cơ sở đó tư duy giáo dục trở lên sâu sắc, nhờ đó nhiều bài

toán giáo dục - đào tạo đã được giải một cách hợp lý” [10, Tr.41].

Viện khoa học giáo dục đã triển khai khá nhiều năm một hệ thống đề tài

về xã hội hoá giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ

chế xã hội hoá giáo dục. Năm 1999, cuốn sách “Xã hội hoá công tác giáo dục

– nhận thức và hành động” của Viện khoa học giáo dục do tập thể tác giả Bùi

Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình là một bước hoàn thiện về

nhận thức lý luận và hướng dẫn thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có

“Đề án xã hội hoá giáo dục và đào tạo”, đánh giá thực trạng và đưa ra những

giải pháp xã hội hoá giáo dục ở tầm vĩ mô, nhằm tạo ra những chuyển biển cơ

bản trong giáo dục - đào tạo, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong hai chục năm đầu của thế kỷ XXI.

Nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học giáo dục – năm 2001, từ góc

độ giáo dục học, cuốn sách “Xã hội hoá giáo dục” do Võ Tấn Quang chủ biên

cùng tập thể các tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Thanh Bình, Lê Đức Phúc, Thái

Duy Tuyên, Nguyễn Văn Đản, Đào Huy Ngân đã khẳng định: Xã hội hoá giáo

dục – một phương thức làm giáo dục nhằm xã hội hoá cá nhân và cá thể hoá.

Lần đầu tiên cuốn sách với ý nghĩa một chuyên khảo đã đề cập đến đặc trưng

của xã hội hoá giáo dục ở các cấp, bậc học và ở địa bàn nông thôn, vấn đề

quản lý Nhà nước trong việc thực hiện xã hội hoá giáo dục để có sự định

hướng đúng đắn hoạt động xã hội hoá giáo dục ở các nhà trường và địa

phương.

1.1.2- Nghiên cứu vấn đề xã hội hoá giáo dục mầm non

1.1.2.1- Xã hội hoá giáo dục mầm non ở nước ngoài

Nhiều nước trên thế giới đã coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu

và đã đầu tư rất lớn cho giáo dục. Tìm hiểu cách làm giáo dục ở nhiều nước

cho thấy xã hội hoá giáo dục là cách làm giáo dục phổ biến ở các nước trên

8



thế giới, kể cả những nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao.

Tuy nhiên, thuật ngữ họ dùng không phải là “xã hội hoá giáo dục” mà là “sự

tham gia của cộng đồng vào giáo dục”. Rõ ràng là thuật ngữ này về mặt ngữ

nghĩa đã thể hiện được nội dung cơ bản của xã hội hoá giáo dục.

Đối với giáo dục mầm non, quan điểm về giáo dục mầm non và xã hội

hoá giáo dục mầm non ở các nước còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng về

phương thức, giải pháp thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non đều có sự

giống nhau cơ bản. Đó là việc huy động mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức

xã hội, cá nhân cùng với nhà nước thực hiện các quá trình giáo dục, là việc

huy động nhiều nguồn vốn, đa dạng hoá nhiều loại hình giáo dục mầm non.

Có thể nói, xu thế xã hội hoá giáo dục mầm non, tăng đầu tư cho giáo dục

mầm non, quan tâm đến giáo dục mầm non đã mang tính toàn cầu. Hiện nay

nhiều nước đã thấy rõ lợi ích rất lớn của giáo dục mầm non cả về mặt kinh tế

và xã hội, bởi vì sự trợ giúp của nhà nước cho chăm sóc trẻ đã giúp tránh

được lãng phí nguồn nhân lực liên quan đến việc nghỉ dài hạn khỏi công việc

của phụ nữ để ở nhà chăm sóc con cái. Đồng thời, các chương trình dịch vụ

cho trẻ em đã đóng góp vào công bằng xã hội và sự phân phối lại thu nhập.

Trong một báo cáo tại Hội nghị quốc tế về chính sách phát triển giáo dục

mầm non tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển (từ 13 – 15/6/2001) đã viết: Chính

phủ các nước thuộc OECD hiện đã nhận ra tầm quan trọng của việc đầu tư từ

nhà nước cho giáo dục mầm non, nên ngày càng tăng mức độ đầu tư lớn cho

giáo dục mầm non. Việc đầu tư cho giáo dục mầm non được bắt đầu từ lúc

sinh đến 6 tuổi, tính về tỷ lệ GDP đầu tư cao nhất là các nước Bắc Âu, trung

bình là các nước châu Âu lục địa, thấp nhất là Australia, Anh và Hoa kỳ. Tuy

nhiên các nước được xem là đầu tư thấp trước đây (Netherlands, UK, US) có

xu hướng tăng mức đầu tư lên một cách có ý nghĩa trong 5 năm qua, chẳng

hạn ngân sách dành cho giáo dục mầm non của Anh quốc được tăng lên gấp

hơn 2 lần từ năm 1996, người ta ước tính rằng việc đầu tư sau thời kỳ 1998 –

2002 sẽ đạt 8 tỷ bảng. Trong khối các nước thuộc OECD có sự chia sẻ kinh

phí giữa nhà nước, cha mẹ và doanh nghiệp, nhưng Chính phủ vẫn đóng vai

9



trò chủ yếu. Để tập trung được nhiều nguồn ổn định, kinh phí chủ yếu cho

giáo dục mầm non được chia sẻ bởi các cấp chính quyền khác nhau (quốc gia,

vùng, địa phương cơ sở), cha mẹ trẻ và các nhà sản xuất. Việc đóng góp có

khác nhau đối với từng nước và cả ngay trong phạm vi một nước tại Hoa Kỳ,

chính phủ từng bang chia sẻ đóng góp cho giáo dục mầm non. Trong khi đó ở

Anh quốc, chính quyền tỉnh chịu hầu hết trách nhiệm chi phí. Ở Đan Mạch,

Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển có một hệ thống dịch vụ trước tuổi học thống

nhất với nguồn tài chính được chia sẻ bởi các cấp chính quyền quốc gia và địa

phương. Chính phủ Na Uy đảm nhiệm mức độ kinh phí lớn trong những năm

90. Trong khi đó, Phần Lan và Thụy Điển sự phi tập trung hoá trách nhiệm tài

chính đã tăng lên cho chính quyền địa phương và thành phố. Hầu hết các

nước trong khối OEDC, các bậc cha mẹ đóng góp từ 25% - 30% chi phí cho

giáo dục mầm non, trừ Phần Lan (15%). Chỉ có Australia, Anh quốc và Hoa

Kỳ, phí đóng góp của cha mẹ đã đủ trang trải phần lớn. Nhưng những khoản

phí này lại được chính phủ hỗ trợ. Tại Mỹ, những nơi giáo dục mầm non

trong sự chu cấp liên quan đến quỹ chi tiêu công cộng của các chương trình

giáo dục và dịch vụ xã hội, cha mẹ trả trung bình 60% của chi phí (hoặc 70 –

80% nếu nằm ngoài hệ thống trường nhà nước). Ở đây, việc chăm sóc giáo

dục trẻ được xem chủ yếu là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, gia đình, không phải

là nhu cầu cấp thiết của công cộng.

Ở Pháp có nhiều hình thức như: trung tâm chăm sóc công lập (65% các

trung tâm được chính quyền tỉnh bảo trợ, 17% được các chính quyền khu vực

bảo trợ, số còn lại bởi các hội hoặc những người chủ bảo trợ); cụm chăm sóc

ở gia đình (Networks) ; người chăm sóc trẻ độc lập ở nhóm trẻ có đăng ký;

các trung tâm chăm sóc trẻ của cha mẹ (do nhóm cha mẹ quản lý tình nguyện

và luân phiên nhau, tham gia cùng các cán bộ chuyên môn); các mạng lưới

chăm sóc thuộc tập thể, các trung tâm chăm sóc quay vòng ở gia đình; các

trung tâm “Drop –in” chăm sóc nhóm trẻ 1-3 tuổi 1 tiếng – 1/2 ngày; trường

mẫu giáo, các trung tâm hoạt động phát triển trẻ, mô hình trung tâm chăm sóc

trẻ do cha mẹ tổ chức, các trung tâm cha mẹ – trẻ “Ngôi nhà xanh”.

10



Một số nước khác trong khu vực châu Á, việc xã hội tham gia vào giáo

dục mầm non cũng được thể hiện rất sinh động.

Chẳng hạn ở Trung Quốc, giáo dục mẫu giáo được coi là một bộ phận

của giáo dục xã hội chủ nghĩa, Bộ và các Vụ y tế đảm nhận trách nhiệm về

chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh ở các nhà trẻ, còn vấn đề giáo dục, đào tạo cô

nuôi dạy trẻ, quản lý nhà trẻ thì được gắn với giáo dục mầm non. Nguồn kinh

phí cho các nhà trẻ, trường mẫu giáo do Nhà nước, các tập thể doanh nghiệp

và cha mẹ. Có ba loại tổ chức đỡ đầu nhà trẻ, mẫu giáo là các cơ quan nhà

nước, các doanh nghiệp (các xí nghiệp tập thể) và tư nhân. Nhà trẻ nhận trẻ

dưới 3 tuổi. Việc quản lý có sự khác nhau, một số tỉnh nhà trẻ thuộc Vụ Giáo

dục và Vụ này đưa ra các hướng dẫn thống nhất cho cả nhà trẻ và trường mẫu

giáo. Một số tỉnh khác lại do Hội phụ nữ quản lý. Mẫu giáo nhận trẻ 3 – 6

tuổi, do Vụ giáo dục địa phương quản lý. Chính sách nhận trẻ linh hoạt gắn

với các loại hình mẫu giáo để đáp ứng điều kiện kinh tế xã hội và đời sống

của người lao động. Trẻ em có thể học 3 năm, 2 năm hoặc 1 năm, học bán trú,

nội trú, có mẫu giáo nửa ngày hoặc chương trình linh hoạt theo vụ mùa ở

nông thôn. Lớp trước tiểu học học 1 năm, thường gắn vào các trường tiểu học,

mục tiêu giúp trẻ chuẩn bị vào tiểu học

Điểm qua chính sách và hoạt động giáo dục mầm non ở các nước trên đã

cho thấy vai trò, khả năng về nội dung hoạt động mà xã hội, cộng đồng có thể

tham gia làm tốt cho giáo dục mầm non. Từ đó, có thể thấy rõ xã hội hoá giáo

dục mầm non là xu thế chung ở các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế

giới và trong khu vực với cùng một phương thức huy động cộng đồng tham

gia làm giáo dục mầm non. Nó được biểu hiện qua một số điểm chính là quy

mô giáo dục mầm non được mở rộng, đa dạng hoá nhiều loại hình, nhiều

chương trình đáp ứng mọi nhu cầu của cộng đồng, đa phương hoá các nguồn

lực và có sự chia sẻ trách nhiệm của chính quyền các cấp, thực hiện quan

điểm tiếp cận đa ngành trong giáo dục mầm non, chuyển hướng chỉ phục vụ

cho một số đối tượng nhất định sang nền giáo dục có tính đại chúng hơn và

chuyển hoạt động giáo dục từ chỗ chỉ do ngành giáo dục, do nhà nước đảm

11



trách đến việc quảng đại hoá các nhiệm vụ giáo dục - đào tạo cho mọi tập thể,

cá nhân, cộng đồng cùng tham gia. Tất nhiên, tính chất mức độ và mục đích

của mỗi bên giáo dục ở mỗi nước có khác nhau, nhưng những nét sinh động

của quá trình xã hội hoá giáo dục mầm non ở các nước tiên tiến trên thế giới

và khu vực có thể cho ta những kinh nghiệm quý. Điều đặc biệt cần quan tâm

ở đây là phải huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục mầm non để

giáo dục mầm non đáp ứng được nhu cầu của xã hội, phục vụ cho mọi người.

Song cần có sự quản lý thống nhất của nhà nước, có cơ chế và tỷ lệ thích hợp,

cụ thể giữa sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của xã hội đối với từng loại

hình giáo dục kể cả chính qui và phi chính quy để việc tham gia của cộng

đồng vào giáo dục mầm non trở thành phương thức thực sự có hiệu quả trong

phát triển giáo dục mầm non.

1.1.2.2- Xã hội hoá giáo dục mầm non ở Việt Nam.

Trước năm 1945, dưới thời Pháp thuộc ở Việt Nam không có nền giáo

dục trước tuổi đi học. Trong cả nước chỉ có vài trạm y tế bần nuôi trẻ mồ côi.

Sau cách mạng tháng Tám, cùng với việc hình thành chế độ mới, lần đầu tiên

ở Việt Nam có bậc giáo dục trước tuổi đi học chính thức ra đời. Nghị định số

05 ngày 10/9/1945 của Bộ cứu tế xã hội đã ghi: “Khuyến khích các nhà bảo

anh, dục anh, ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em dưới 7 tuổi và sẽ tổ chức tuỳ theo

điều kiện do Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau” [13, Tr. 103].

Từ chỗ hầu như chưa có gì, trải qua những năm tháng khó khăn, gian

khổ của hai cuộc kháng chiến, vượt qua thời kỳ chao đảo trong sự chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ thực hiện

chủ trương xã hội hoá, nền giáo dục mầm non đã khắc phục được tình trạng

suy giảm, giữ được sự ổn định trên diện rộng, phát triển ở những khu vực có

điều kiện, tạo nên sự chuyển biến rõ rệt.

Nhìn vào các hình thức giáo dục mầm non, có thể khẳng định đây là bậc

học được xã hội hoá cao hơn bất kỳ bậc học nào. Giáo dục mầm non là sự thể

hiện sinh động nguyên tắc Nhà nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Song việc

nghiên cứu xã hội hoá giáo dục mầm non còn hết sức hạn chế. Trong báo cáo

12



tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội hoá giáo dục của Ban khoa giáo

Trung ương đã nhận định: Có thể thấy đã có một số nghiên cứu chuyên đề về

xã hội hoá sự nghiên cứu chung. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề chưa được

nghiên cứu sâu như xã hội hoá đổi mới giáo dục mầm non, dạy nghề… đó là

những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu [12, Tr.5].

Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện chiến lược

phát triển giáo dục mầm non, nhằm phát triển giáo dục mầm non theo tinh

thần Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ IX ngày 25/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị bàn

về công tác giáo dục mầm non. Hội nghị đã đề ra giải pháp cơ bản, trong đó

nhấn mạnh: tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hoá giáo dục mầm non, đa

dạng hoá các loại hình giáo dục mầm non. Ngày 15/11/2002, Thủ tướng

Chính phủ đã ra Quyết định số 161/2002/QĐ- TTg về một số chính sách phát

triển về giáo dục mầm non đã khẳng định rõ ở điều 1 nhiệm vụ phát triển giáo

dục mầm non đến năm 2010 “Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển giáo

dục mầm non đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mầm non,

mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân

cư…” Quyết định 161/2002/QĐ-TTg được coi như chiếc “chìa khoá vàng” để

mở cánh cửa giáo dục mầm non phát triển từ nay đến năm 2010. Để thực hiện

Quyết định 161/2002/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ có hiệu quả, Bộ

Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính ngày 24/2/2003 đã ra Thông tư

liên tịch số 05/2005/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC hướng dẫn một số chính

sách giáo dục phát triển mầm non trong đó đã ra chỉ các bước của việc thực

hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp mầm non công lập, ngoài công lập, thực

hiện xã hội hoá giáo dục đối với giáo dục mầm non.

Nhờ đó, giáo dục mầm non đã có sự chuyển biến quan trọng, quy mô trẻ

đến các trường, lớp mầm non được giữ vững, khắc phục được chiều hướng

giảm sút trong những năm đầu thập kỷ 90. Xã hội hoá giáo dục mầm non đã

được chú trọng chỉ đạo thực hiện nên các loại hình giáo dục mầm non phát

triển đa dạng, mở rộng khả năng đóng góp của mọi người, cũng như sự hưởng

13



thụ giáo dục mầm non của trẻ em. Đặc biệt, trẻ 5 tuổi được huy động ở mức

cao 80% - 85%, góp phần đáng kể hoàn thành các mục tiêu phổ cập giáo dục

tiểu học. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được nâng lên đáng kể. Trong các

cơ sở giáo dục mầm non tỷ lệ trẻ duy dinh dưỡng giảm nhanh, có nơi dưới

15%.

Cùng với việc đổi mới giáo dục phổ thông, giáo dục mầm non đã tích

cực đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục. Các điều kiện hỗ trợ trẻ học tập

như đồ chơi – sách giáo khoa của trẻ thơ, đồ dùng dạy học được đầu tư và cải

tiến, ngày càng phong phú về chủng loại; chăm sóc sức khoẻ và giáo dục dinh

dưỡng được chú trọng trong mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Những nơi

có điều kiện đã tổ chức cho trẻ được làm quen với tin học, ngoại ngữ… góp

phần bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Cơ sở vật chất giáo dục mầm non gần đây đã được cải thiện, nhiều

trường trở thành trường trọng điểm, trường đạt chuẩn quốc gia và nhiều

trường lớp ở các loại hình khác nhau đều đáp ứng được yêu cầu chăm sóc

giáo dục trẻ.

Đời sống giáo viên mầm non ngoài biên chế được quan tâm hơn và từ

khi có Chỉ thị 18/2001/ TTg của Thủ tướng Chính phủ, 29,2% số giáo viên

mầm non ngoài biên chế được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế [5,

Tr.19]. Điều này đã góp phần tạo được niềm tin cho đội ngũ giáo viên mầm

non phấn đấu trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ.

Một số thành tựu kể trên chính là thành quả của nền giáo dục cách mạng,

là kết quả đường lối giáo dục đúng đắn, sự chỉ đạo của Đảng, quản lý Nhà

nước, nhờ sức phấn đấu, đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, giáo viên mầm

non. Và một điều cần phải khẳng định, đó là những gì giáo dục mầm non có

được hôm nay cũng là kết quả của sự quan tâm ngày càng lớn của toàn xã hội

đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ thơ. Vì vậy, chúng ta cần có sự nhìn nhận,

đánh giá công tác xã hội hoá giáo dục mầm non trong hơn mười năm qua.

Việc nghiên cứu vấn đề xã hội giáo dục mầm non đã được một số ít công

trình đề cập đến. Tuy nhiên, các nghiên cứu này phần lớn mới chỉ dừng lại ở

những giải pháp mang tầm vĩ mô hoặc ghi nhận từ thực tiễn một vài mô hình

đã thành công trong việc huy động cộng đồng, chưa đưa ra được cơ sở lý luận

của xã hội hoá giáo dục mầm non và hệ thống các biện pháp quản lý công tác

14



xã hội hoá giáo dục mầm non giúp cho việc tổ chức thực hiện có hiệu quả

công tác xã hội hoá giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang nói riêng và

toàn quốc nói chung.

Toàn bộ những tri thức khoa học về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả

đã trân trọng tiếp thu và trình bày trong chương 1: Cơ sở lý luận của công tác

quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non.

Luận văn này cũng là một tổng kết từ thực tiễn xã hội hoá giáo dục mầm

non trên địa bàn thành phố Bắc Giang, nhằm nâng cao nhận thức, tìm biện

pháp tổ chức thực hiện vấn đề này có hiệu quả hơn nữa.

1.2- Giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân

Chương II, Hệ thống giáo dục Quốc dân Điều 21, 22 Luật giáo dục năm

2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ: “Giáo dục

mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng; chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng

tuổi đến sáu tuổi”.

“Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình

cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn

bị cho trẻ vào học lớp một” [16, tr.6].

Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc

dân. Nó có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và đào tạo thế

hệ trẻ, vì giáo dục mầm non là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình

thành và phát triển nhân cách trẻ. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh

rằng nhân cách của con người được hình thành tương đối đầy đủ trong 5 năm

đầu tiên của cuộc đời.

Đây là thời kỳ tăng trưởng về cơ thể và phát triển các mặt trí tuệ, tình

cảm, xã hội nhanh nhất, nhân cách bắt đầu hình thành, khối lượng những thu

hoạch đạt được rất lớn khiến ta có thể coi sự phát triển trong những năm đó có

tác dụng quyết định rất lớn đến toàn bộ tương lai sau này. Ngược lại, những

trục trặc về tăng trưởng và phát triển trong thời kỳ này nếu không được phát

triển và khắc phục thích đáng có thể để lại những hậu quả lâu dài, ảnh hưởng

không ít đến việc rèn luyện những năng lực cần thiết mai sau. Nhà giáo dục

Xô Viết lỗi lạc A.S Makarenko có nói: Những cơ sở văn bản của việc giáo

15



dục trẻ đã được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy cho trẻ trong

thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau, việc giáo dục đào tạo

con người vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, còn những nụ

hoa thì đã được vun trồng 5 năm đầu tiên.

Do vậy, giáo dục mầm non có một vị trí ngày càng được khẳng định toàn

bộ sự nghiệp giáo dục - đào tạo con người. Điều này hoàn toàn phù hợp với

chủ trương đẩy mạnh phát triển giáo dục của UNESCO bao gồm 21 điểm, ở

điểm 5 nhấn mạnh: “Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục

tiêu lớn trong chiến lược giáo dục”.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bồi dưỡng thế hệ cách

mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Việt Nam là

nước đứng thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của

Liên hiệp quốc (20/2/1990), chính thức cam kết cùng cộng đồng quốc tế và để

nâng cao trách nhiệm trong pháp lý cho việc thực hiện cam kết quốc tế ra sức

bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phấn đấu cho tương lai tươi sáng của trẻ em Việt

Nam. Mặt khác, để lại cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cam kết quốc tế và để

nâng cao trách nhiệm trong chăm sóc và giáo dục trẻ em (16/8/1991).

Trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, như trong chỉ thị số 38CT/TƯ ngày 30/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công

tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trong Luật bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em đều xác định: “Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai

của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và

công nhận quyền bình đẳng của tất cả trẻ em: “Trẻ em, không phân biệt gái,

trai… không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến

của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục…” [60, Tr. 718]. Từ đó, nêu rõ trách nhiệm: “Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân

dân, của mọi công dân và mỗi gia đình. Trong phạm vi khả năng của mình,

cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát

triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ ” [60, Tr.110], “Chăm sóc và giáo dục tốt

16



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

×