1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

2- Giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 132 trang )


dục trẻ đã được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy cho trẻ trong

thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau, việc giáo dục đào tạo

con người vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, còn những nụ

hoa thì đã được vun trồng 5 năm đầu tiên.

Do vậy, giáo dục mầm non có một vị trí ngày càng được khẳng định toàn

bộ sự nghiệp giáo dục - đào tạo con người. Điều này hoàn toàn phù hợp với

chủ trương đẩy mạnh phát triển giáo dục của UNESCO bao gồm 21 điểm, ở

điểm 5 nhấn mạnh: “Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục

tiêu lớn trong chiến lược giáo dục”.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bồi dưỡng thế hệ cách

mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Việt Nam là

nước đứng thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của

Liên hiệp quốc (20/2/1990), chính thức cam kết cùng cộng đồng quốc tế và để

nâng cao trách nhiệm trong pháp lý cho việc thực hiện cam kết quốc tế ra sức

bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phấn đấu cho tương lai tươi sáng của trẻ em Việt

Nam. Mặt khác, để lại cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cam kết quốc tế và để

nâng cao trách nhiệm trong chăm sóc và giáo dục trẻ em (16/8/1991).

Trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, như trong chỉ thị số 38CT/TƯ ngày 30/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công

tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trong Luật bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em đều xác định: “Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai

của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và

công nhận quyền bình đẳng của tất cả trẻ em: “Trẻ em, không phân biệt gái,

trai… không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến

của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục…” [60, Tr. 718]. Từ đó, nêu rõ trách nhiệm: “Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân

dân, của mọi công dân và mỗi gia đình. Trong phạm vi khả năng của mình,

cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát

triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ ” [60, Tr.110], “Chăm sóc và giáo dục tốt

16



các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải kiên trì, bền

bỉ”, “Trước hết, các gia dình (tức là ông, bà cha mẹ, anh chị) phải làm thật

tốt công việc ấy. Các Đảng uỷ đường phố và hợp tác xã phải chịu trách nhiệm

chỉ đạo thiết thực và thường xuyên. Uỷ ban thiếu niên nhi đồng, đoàn thanh

niên, ngành giáo dục và các ngành, các đoàn thể cần phải có kế hoạch cụ thể

chăm sóc, giáo dục các cháu càng ngày càng khoẻ mạnh và tiến bộ. Các Tỉnh

uỷ, Thành uỷ cần phải phụ trách đôn đốc việc này cho có kết quả tốt. Vì tương

lai con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc

và giáo dục các cháu bé cho tốt.” [16, Tr. 260 – 261].

Chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em ngay những tháng năm đầu tiên

của cuộc đời là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan

trọng trong sự nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành

những người chủ tương lai của nước Việt Nam, sánh vai với các cường quốc

năm châu.

Tư tưởng đó giờ đây vẫn còn nguyên giá trị và hoàn toàn phù hợp với tư

tưởng của thời đại “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Ngày nay, nhân tố

con người được coi là chủ thể của sự sáng tạo ra mọi của cải vật chất và văn

hoá, là chủ thể xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái. Nguồn lực con người

là nguồn nhân lực cơ bản tạo ra sự tăng trưởng của các nguồn lực khác (nguồn

lực vật chất, nguồn lực tài chính). Vì vậy, con người phát triển cao về trí tuệ,

cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là

động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là mục tiêu của

xã hội.

Chính vì lẽ đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung

ương Đảng khoá VIII đã định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo

trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tiếp tục khẳng định mục tiêu

của giáo dục mầm non đến năm 2020 là “xây dựng hoàn chỉnh và phát triển

bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi

dạy trẻ cho các gia đình”. Và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục nhấn



17



mạnh: “Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và

trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư…” [61, Tr. 109].

Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ (25/6/2002) bàn về phát triển giáo

dục mầm non theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và Nghị

quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đã một lần nữa khẳng định: Giáo

dục mầm non là bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân,

góp phần đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện.

1.3- Quan niệm về công tác xã hội hoá giáo dục.

Xã hội hoá giáo dục là quá trình tương tác giữa giáo dục và xã hội,

trong đó giáo dục gia nhập và hoà nhập vào xã hội, vào cộng đồng, đồng thời

xã hội tiếp nhận giáo dục như là công việc của mình, do mình và vì mình. Đó

là mối quan hệ biện chứng. Xã hội hoá giáo dục có tác dụng tích cực đến quá

trình xã hội hoá con người, xã hội hoá cá nhân.

Ở đây, cần phân biệt rõ khái niệm xã hội hoá cá nhân và xã hội hoá giáo

dục. Nội hàm xã hội hoá cá nhân và cá thể hoá trong lý thuyết này không phải

là nội dung chủ yếu của xã hội hoá giáo dục như chúng ta đang bàn, mặc dù

xét đến cùng cũng phải tiến tới một cách đúng hướng là xã hội hoá giáo dục

phải nhằm xã hội cá nhân và cá thể hoá. Vì vậy, cần thấy nội hàm của khái

niệm xã hội hoá giáo dục của ta không tương đồng với nội hàm khái niệm xã

hội hoá của nhiều nước trên thế giới, nhất là trong khu vực.

Đặt vấn đề xã hội hoá giáo dục là tìm cách hoàn nguyên bản chất xã hội

của giáo dục, gắn giáo dục vào đúng vị trí của nó. Giáo dục là bộ phận không

thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học và công nghệ là

động lực phát triển kinh tế – xã hội. Như vậy, xã hội hoá giáo dục là thực hiện

mối liên hệ phổ biến, có tính quy luật giữa giáo dục và cộng đồng xã hội.

Thiết lập được mối quan hệ này là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển

xã hội. Nội dung quy luật này là ở chỗ: “Mọi người phải làm giáo dục để cho

mọi người ”. Xã hội hoá giáo dục phải gồm hai vế: Mọi người có nghĩa vụ

chăm lo giáo dục để giáo dục phục vụ cho mọi người, để mọi người được

quyền đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Hai vế trên đã nêu rõ hai yêu

18



cầu của xã hội hoá giáo dục là phải xã hội hoá trách nhiệm, nghĩa vụ đối với

giáo dục và phải xã hội hoá quyền lợi về giáo dục đối với mọi người. Hai yêu

cầu đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và thực hiện kết

hợp, đồng thời. Yêu cầu thứ hai là hệ quả của yêu cầu thứ nhất và cũng là

biện pháp thúc đẩy yêu cầu thứ nhất. Yêu cầu thứ hai chính là đỉnh cao của xã

hội hoá giáo dục. Lâu nay chúng ta vẫn lấy yêu cầu thứ nhất làm tiêu chí số

một để đánh giá thành tích về xã hội hoá giáo dục chính là vì mối quan hệ nói

trên trong khi điều kiện kinh tế – xã hội chưa cho phép thực hiện tốt ngay yêu

cầu thứ hai – cái đích của xã hội hoá giáo dục.

Chính vì lẽ đó, trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ tính chất xã

hội của giáo dục và xã hội hoá giáo dục, hai cái đó không phải là một và

không đồng nhất. Nếu không có định hướng rõ ràng thì tự thân hoạt động giáo

dục vẫn có tính chất xã hội và nhân văn của nó. Và cũng phải xác định rõ

rằng: Nội hàm xã hội hoá giáo dục nói ở đây thuộc phương thức, phương

châm, cách làm giáo dục. Nó thuộc phương thức tổ chức và quản lý giáo dục.

Xã hội hoá giáo dục là: Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên

các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản

lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập.

Khi nói về những chủ trương, chính sách và những biện pháp lớn, Nghị

quyết 04- NQ-HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng

khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã ghi: “Huy động

các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay

vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục.”

“Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia

đình và mọi người cùng với ngành giáo dục - đào tạo chăm lo xây dựng sự

nghiệp giáo dục theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây

dựng môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội” [51, Tr. 65].

Cũng trong Hội nghị Trung ương lần thứ tư khoá VII, đồng chí Đỗ Mười

Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Đương nhiên Nhà

nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Nhưng vấn đề quan trọng là phải

19



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

×