1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

3- Quan niệm về công tác xã hội hoá giáo dục.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 132 trang )


cầu của xã hội hoá giáo dục là phải xã hội hoá trách nhiệm, nghĩa vụ đối với

giáo dục và phải xã hội hoá quyền lợi về giáo dục đối với mọi người. Hai yêu

cầu đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và thực hiện kết

hợp, đồng thời. Yêu cầu thứ hai là hệ quả của yêu cầu thứ nhất và cũng là

biện pháp thúc đẩy yêu cầu thứ nhất. Yêu cầu thứ hai chính là đỉnh cao của xã

hội hoá giáo dục. Lâu nay chúng ta vẫn lấy yêu cầu thứ nhất làm tiêu chí số

một để đánh giá thành tích về xã hội hoá giáo dục chính là vì mối quan hệ nói

trên trong khi điều kiện kinh tế – xã hội chưa cho phép thực hiện tốt ngay yêu

cầu thứ hai – cái đích của xã hội hoá giáo dục.

Chính vì lẽ đó, trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ tính chất xã

hội của giáo dục và xã hội hoá giáo dục, hai cái đó không phải là một và

không đồng nhất. Nếu không có định hướng rõ ràng thì tự thân hoạt động giáo

dục vẫn có tính chất xã hội và nhân văn của nó. Và cũng phải xác định rõ

rằng: Nội hàm xã hội hoá giáo dục nói ở đây thuộc phương thức, phương

châm, cách làm giáo dục. Nó thuộc phương thức tổ chức và quản lý giáo dục.

Xã hội hoá giáo dục là: Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên

các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản

lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập.

Khi nói về những chủ trương, chính sách và những biện pháp lớn, Nghị

quyết 04- NQ-HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng

khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã ghi: “Huy động

các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay

vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục.”

“Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia

đình và mọi người cùng với ngành giáo dục - đào tạo chăm lo xây dựng sự

nghiệp giáo dục theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây

dựng môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội” [51, Tr. 65].

Cũng trong Hội nghị Trung ương lần thứ tư khoá VII, đồng chí Đỗ Mười

Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Đương nhiên Nhà

nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Nhưng vấn đề quan trọng là phải

19



quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc xã hội hoá các nguồn đầu tư, mở rộng

phong trào xây dựng và phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là

sự nghiệp của toàn xã hội” [51, Tr.11].

Trong hội nghị kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành

Trung ương lần thứ tư khoá VII về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và

đào tạo”, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hoá hơn: “đẩy mạnh

cuộc vận động xã hội hoá giáo dục, tiến tới hình thành một phong trào quần

chúng, với sự tham gia tích cực, chủ động của tất cả các tổ chức xã hội dưới

sự lãnh đạo của Đảng để cùng ngành ta làm giáo dục chứ không phải chỉ để

hỗ trợ cho ngành”.

Quan điểm này đã được thể chế hoá ở Điều 12 của Luật giáo dục năm

2005 về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.

“Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự

nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây

dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực

hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến

khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự

nghiệp giáo dục” [19, Tr. 14].

Như vậy, Luật giáo dục năm 2005 đã xác định rõ vai trò chỉ đạo của Nhà

nước, vai trò tham gia của xã hội, vai trò chủ động của giáo dục nhà trường.

Nội dung của cơ chế thể hiện ở chỗ: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát

triển giáo dục; Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân đều có trách nhiệm góp

phần xây dựng giáo dục một cách đa dạng trên mọi mặt, từ việc mở các loại

hình trường công lập, bán công, dân lập, tư thục, đến việc xây dựng phong

trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, từ nhà nước ưu tiên đầu tư và

giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đến khuyến

khích mọi nguồn đầu tư kinh phí của Nhà nước và nước ngoài. Giáo dục nói

chung và nhà trường nói riêng luôn giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp

với các lực lượng xã hội, với gia đình thực hiện phát triển giáo dục về các

20



mặt: Quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục; nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài.

Sự kết hợp ba yếu tố: “nhà nước – xã hội – giáo dục” trong mọi hoạt

động của sự nghiệp giáo dục đã được thể chế hoá ở Luật giáo dục, trở thành

một qui định pháp lý mang tính động lực, chỉ đạo hành động “Liên kết đồng

bộ” ba yếu tố đó, tạo nên tác động tổng hợp cho sự phát triển giáo dục và cho

việc giải quyết các mâu thuẫn của giáo dục.

Xã hội hoá giáo dục là một quan điểm cơ bản, có tính chiến lược trong

việc xây dựng và phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đó là

sự thể hiện đường lối vận động quần chúng, huy động sức mạnh của toàn xã

hội vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng ta luôn coi trọng trong

suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng. Tuỳ từng thời kỳ cách mạng và

tùy từng lĩnh vực công tác, tư tưởng đó được thể hiện trong những nội dung

khác nhau. Khi bàn về công tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Phải mật

thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một

phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc

giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt

mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng

không hoàn toàn” [15, Tr.157]. Người chỉ rõ: “Giáo dục là sự nghiệp của

quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng

quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa

học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn

thành thắng lợi nhiệm vụ đó…” [15, Tr. 258].

Xã hội hoá được coi như một quan điểm chỉ đạo không những để phát

triển sự nghiệp giáo dục nói riêng mà còn để hoạch định hệ thống chính sách

xã hội nói chung: “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần

xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người

dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước

ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội ” [16, Tr .114].



21



Xã hội hoá giáo dục đòi hỏi phải huy động mọi nhân lực, vật lực, tài lực,

tiềm năng của xã hội tham gia giải quyết mọi nhiệm vụ, mọi vấn đề của giáo

dục. Có thể coi xã hội tham gia giải quyết giáo dục là một cách làm giáo dục

được xác định bởi những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan đến giáo dục

vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục.

- Huy động các lực lượng của cộng đồng tham gia vào công tác giáo dục.

- Đa dạng hoá các hình thức giáo dục và các loại hình nhà trường.

- Huy động các nguồn đầu tư trong xã hội vào sự nghiệp hoá giáo dục.

- XHHGD là cuộc vận động lớn trong xã hội có sự lãnh đạo chặt chẽ của

Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò nòng cốt của ngành giáo dục.

Để từ đó mọi người có cơ hội được hưởng quyền lợi về giáo dục, được

học tập, học tập suốt đời, xây dựng một xã hội học tập nhằm đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

1.4- Quan niệm về công tác xã hội hoá giáo dục mầm non

1.4.1- Bản chất của công tác xã hội hoá giáo dục mầm non

XHHGD mầm non là một bộ phận của xã hội hoá giáo dục nói chung. Vì

vậy cần có sự nhìn nhận xem xét vấn đề xã hội hoá giáo dục mầm non trong

mối quan hệ khăng khít, gắn bó với xã hội hoá giáo dục. Xã hội hoá giáo dục

mầm non trong giai đoạn hiện nay cũng bị chi phối bởi các yếu tố như: kinh tế

– xã hội - văn hoá; nhận thức của nhân dân về giáo dục mầm non, về xã hội

hoá giáo dục; yếu tố giáo viên – học sinh; điều kiện thực hiện… Những yếu tố

này có quan hệ chi phối, tác động, chế ước lẫn nhau trong quá trình thực hiện

xã hội hoá giáo dục mầm non.

Bản chất của XHHGD mầm non là lôi cuốn mọi lực lượng xã hội phát

triển giáo dục mầm non để thực hiện giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi.

XHHGD mầm non cũng phản ánh bản chất của luận đề “Giáo dục cho tất cả

mọi người; tất cả cho sự nghiệp giáo dục” (Education for, All for Education

EFA - AEF).



22



XHHGD mầm non là: Huy động mọi lực lượng xã hội cùng làm giáo dục

mầm non, dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Việc chăm sóc giáo dục

trẻ mầm non là nhiệm vụ chung của các trường, lớp mầm non, của cả gia đình

trẻ và cộng đồng. Cần huy động và tạo điều kiện để gia đình và cộng đồng

tham gia vào các hoạt động giáo dục mầm non. Giáo dục mầm non phải đáp

ứng được nhu cầu của xã hội, cộng đồng, đảm bảo mọi trẻ em đều được chăm

sóc, giáo dục ở các loại hình giáo dục khác nhau, được hưởng thụ các dịch vụ

giáo dục mầm non.

Từ đặc thù của GDMN mà XHHGD mầm non có những đặc điểm sau:

- Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc

dân, đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Niềm

tin và hy vọng của từng gia đình và cả xã hội về tương lai của trẻ và đất nước

trông chờ vào sự phát triển hàng ngày ở lứa tuổi măng non này. Vì vậy, phải

thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ em trên cơ sở

một sự phát triển đa dạng và ổn định, phải đổi mới phương thức nuôi dạy

bằng những cải cách cơ bản và toàn diện. Đó là sự cố gắng đầu tư và tăng

cường sự tham gia của toàn xã hội chăm lo cho trẻ thơ. Xét về các loại hình

giáo dục thì so với các bậc học, ngành học khác giáo dục mầm non mang tính

xã hội cao nhất, rộng khắp và sâu đậm nhất vì nó đòi hỏi cả về thể chất lẫn

tinh thần, trí tuệ cho trẻ của gia đình, trường lớp mầm non, mọi ngành, mọi

cấp, tất cả cộng đồng. Nó là điều tất yếu của giáo dục- cộng đồng và xã hội, là

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của mọi người lớn dành tất cả những gì tốt

đẹp nhất cho trẻ em lứa tuổi mầm non.

- Xét về phân loại của quá trình xã hội hoá ở giai đoạn trẻ mầm non là

giai đoạn xã hội hoá sớm nhất, được bắt đầu từ khi trẻ sinh ra cho đến khi đi

học. XHHGD mầm non thực chất là một quá trình hình thành và phát triển

nhân cách trẻ em từ 0 - 6 tuổi. Nó diễn ra theo con đường xã hội hoá cá nhân,

trong đó trẻ tiếp thu các chuẩn mực, giá trị xã hội và có sự luyện tập, học hỏi

dưới hướng dẫn của giáo viên và những người lớn khác. Qua đó, trẻ tiếp nhận

kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống

23



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

×