Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 132 trang )
XHHGD mầm non là: Huy động mọi lực lượng xã hội cùng làm giáo dục
mầm non, dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Việc chăm sóc giáo dục
trẻ mầm non là nhiệm vụ chung của các trường, lớp mầm non, của cả gia đình
trẻ và cộng đồng. Cần huy động và tạo điều kiện để gia đình và cộng đồng
tham gia vào các hoạt động giáo dục mầm non. Giáo dục mầm non phải đáp
ứng được nhu cầu của xã hội, cộng đồng, đảm bảo mọi trẻ em đều được chăm
sóc, giáo dục ở các loại hình giáo dục khác nhau, được hưởng thụ các dịch vụ
giáo dục mầm non.
Từ đặc thù của GDMN mà XHHGD mầm non có những đặc điểm sau:
- Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Niềm
tin và hy vọng của từng gia đình và cả xã hội về tương lai của trẻ và đất nước
trông chờ vào sự phát triển hàng ngày ở lứa tuổi măng non này. Vì vậy, phải
thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ em trên cơ sở
một sự phát triển đa dạng và ổn định, phải đổi mới phương thức nuôi dạy
bằng những cải cách cơ bản và toàn diện. Đó là sự cố gắng đầu tư và tăng
cường sự tham gia của toàn xã hội chăm lo cho trẻ thơ. Xét về các loại hình
giáo dục thì so với các bậc học, ngành học khác giáo dục mầm non mang tính
xã hội cao nhất, rộng khắp và sâu đậm nhất vì nó đòi hỏi cả về thể chất lẫn
tinh thần, trí tuệ cho trẻ của gia đình, trường lớp mầm non, mọi ngành, mọi
cấp, tất cả cộng đồng. Nó là điều tất yếu của giáo dục- cộng đồng và xã hội, là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của mọi người lớn dành tất cả những gì tốt
đẹp nhất cho trẻ em lứa tuổi mầm non.
- Xét về phân loại của quá trình xã hội hoá ở giai đoạn trẻ mầm non là
giai đoạn xã hội hoá sớm nhất, được bắt đầu từ khi trẻ sinh ra cho đến khi đi
học. XHHGD mầm non thực chất là một quá trình hình thành và phát triển
nhân cách trẻ em từ 0 - 6 tuổi. Nó diễn ra theo con đường xã hội hoá cá nhân,
trong đó trẻ tiếp thu các chuẩn mực, giá trị xã hội và có sự luyện tập, học hỏi
dưới hướng dẫn của giáo viên và những người lớn khác. Qua đó, trẻ tiếp nhận
kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống
23
quan hệ xã hội với người khác. Như vậy, mối quan hệ giữa xã hội hoá cá
nhân, phát triển nhân cách và giáo dục trong bậc học mầm non có nhiều nét
tương đồng. Bản thân quá trình chăm sóc trẻ em mầm non là một quá trình mà
trong đó mục đích, nội dung, phương pháp và điều kiện là những nhân tố cấu
thành mang tính thích hợp. Trẻ mầm non với tư cách là đối tượng chăm sóc
giáo dục được sự chăm lo của giáo dục nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo và của
giáo dục gia đình một cách tự giác lẫn tự phát. Chất lượng và hiệu quả của
quá trình xã hội hoá giáo dục mầm non phụ thuộc vào việc lựa chọn phương
thức hoạt động chăm sóc giáo dục đối với trẻ em sao cho vừa khai thác tối ưu
các nguồn lực đảm bảo mục tiêu phát triển giáo dục mầm non về cả quy mô
và chất lượng, đồng thời vừa tạo ra những cơ hội nhiều mặt để phát triển tiềm
năng của trẻ.
Để thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non có hiệu quả cần quán triệt
đầy đủ bốn vấn đề sau:
- Cộng đồng hoá trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội hoá
giáo dục mầm non.
- Đa dạng hoá các loại hình giáo dục mầm non.
- Đa phương hoá thu hút các nguồn lực cho giáo dục mầm non. Nhà
nước – nhân dân – Trung ương – địa phương, ngành giáo dục – các ngành
hữu quan trong nước – ngoài nước.
- Thể chế hoá thành các qui định, chế tài đối với nghĩa vụ, trách nhiệm
của các lực lượng xã hội đối với việc tham gia vào giáo dục mầm non.
1.4.2- Vai trò của công tác XHHGD mầm non trong giai đoạn hiện nay.
1.4.2.1- Xã hội hoá giáo dục mầm non khai thác được tối ưu tiềm năng của xã
hội, khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục mầm non.
Trải qua hơn 5 thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước, được
sự quan tâm của Bác Hồ kính yêu, sự hưởng ứng của toàn dân, từ một nhà trẻ
Khe – Khao ở chiến khu Việt Bắc 1951, đến nay hệ thống giáo dục mầm non
trên cả nước đã phát triển rộng khắp, thu hút được số trẻ ra lớp đạt tỷ lệ khá
cao so với nhiều nước trong vùng Đông Nam Á. Chất lượng chăm sóc, giáo
24
dục trẻ em ở nhiều nơi đạt kết quả tốt hoặc đang có chuyển biến tốt. Tuy
nhiên, ngành giáo dục mầm non vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
- Số trẻ trong độ tuổi đến nhà trẻ, mẫu giáo còn thấp. Đa số trẻ còn lại
được nuôi dạy tại gia đình, một bộ phận cha mẹ trẻ còn thiếu kiến thức nuôi
dạy con, đặc biệt là về phương pháp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trong các trường mầm non còn chiếm một tỷ lệ
đáng kể. Phương pháp giáo dục còn mang tính đồng loạt, áp đặt, hạn chế sự
phát triển của trẻ.
- Cơ sở vật chất, trường lớp, trang thiết bị còn thiếu về số lượng, xuống
cấp về chất lượng.
- Đội ngũ giáo viên còn thiếu và chưa đáp ứng được nhu cầu về chất
lượng. Đời sống giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập thấp, không ổn
định (đặc biệt là đối với giáo viên ở nông thôn và khối ngoài công lập).
- Sự phát triển về giáo dục mầm non không đồng đều giữa các khu vực,
vùng miền núi, tạo ra khoảng cách lớn trong việc hưởng thụ các dịch vụ mầm
non.
Giáo dục mầm non đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng bao cấp trong một
thời gian khá dài, nên chỉ tập trung xây dựng các nhà trẻ, trường mẫu giáo
chính quy với vốn chủ yếu do Nhà nước và khu vực kinh tế tập thể (hợp tác
xã). Chính vì vậy, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước
và kinh phí tập thể không thể tài trợ cho giáo dục mầm non nên đã dẫn đến có
những mặt giảm sút nghiêm trọng, ở nhiều nơi các nhà trẻ, trường mẫu giáo
đã phải giải thể.
Hiện nay, giáo dục mầm non đang đứng trước những thách thức lớn. Đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển giáo dục mầm non và ngân sách Nhà
nước đầu tư cho giáo dục còn hạn chế. Kinh phí Nhà nước mới chỉ đầu tư cho
1/3 số nhà trẻ, mẫu giáo, mà các nhà trẻ mẫu giáo hiện có cũng mới chỉ thu
nhận được hơn 20% số trẻ trong độ tuổi mầm non. Phần kinh phí đầu tư này
chủ yếu là để chi lương cơ bản cho giáo viên. Dù vậy, mặt bằng lương giáo
viên mầm non vẫn ở mức quá thấp. Nhiều nơi, nhất là ở các vùng ngoại thành,
25
nông thôn, vùng sâu, vùng xa hầu như chưa có sự đầu tư của Nhà nước. Điều
này tất yếu dẫn đến tình trạng phát triển giáo dục mầm non hết sức khó khăn.
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng nói trên là do bản thân ngành giáo
dục mầm non chậm đổi mới về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung, phương
pháp, chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lý nhà nước.
Mặt khác, chính sách đầu tư cho giáo dục mầm non bất hợp lý cả về phương
diện kế hoạch và thực tiễn, mới chỉ đầu tư cho trẻ em ở khu vực mầm non
ngoài công lập. Sự đầu tư chưa tương xứng giữa các ngành học và chưa
hướng tới công bằng cho trẻ em. Chưa có cơ chế minh bạch trong đầu tư cho
giáo dục mầm non. Đơn cử như năm 1995 ,tỷ trọng cho giáo dục mầm non chỉ
chiếm 4,2% ngân sách chi cho giáo dục phổ thông, trong khi tiểu học là
32,3% và trung học cơ sở 19,6%; các con số đó tương ứng của năm 1997 là
5,4% - 35,3% - 19,4% [6, Tr. 390]. Đó chính là mâu thuẫn giữa một mặt là
yêu cầu của phổ cập giáo dục tiểu học đòi hỏi phát triển với quy mô rộng lớn
của lớp mẫu giáo 5 tuổi, đảm bảo cho 100% trẻ 5 tuổi được chuẩn bị vào tiểu
học với một mặt là không đủ điều kiện để phát triển, mà khó khăn trước hết là
đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất.
Từ những vấn đề đang đặt ra cho giáo dục mầm non, phương hướng phát
triển của giáo dục mầm non trong giai đoạn tới là tiếp tục củng cố duy trì từng
bước phát triển về quy mô nhà trẻ, mẫu giáo và nâng cao chất lượng chăm sóc
– giáo dục trẻ, kể cả số trẻ được nuôi dưỡng ở gia đình theo phương thức phối
kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân. Giáo dục mầm non được thực hiện thông
qua hình thức tổ chức các nhà trẻ, mẫu giáo; đồng thời qua việc tuyên truyền
phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ trong xã hội.
XHHGD mầm non sẽ mang lại nhiều nguồn lực phục vụ cho mọi hoạt
động của giáo dục mầm non. Huy động các nguồn lực và đa dạng hoá các
nguồn lực là tính đến một vi phạm rất rộng rãi bao gồm: Nguồn lực vật chất
(nhân lực, vật lực, tài lực), nguồn lực tinh thần (sáng kiến kinh nghiệm, góp ý
tư vấn…), nguồn lực vừa có ý nghĩa vật chất và tinh thần (thông tin và công
26
nghệ thông tin…). Những nguồn lực này sẽ góp phần giải quyết được mâu
thuẫn, khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục mầm non.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, huy động các nguồn lực của xã hội
không có nghĩa là từ đó khoán trắng cho xã hội, cũng như ngược lại, xã hội
không được khoán trắng cho Nhà nước. XHHGD mầm non không có nghĩa là
giảm nhẹ trách nhiệm và vai trò của Nhà nước. Trái lại, Nhà nước phải tăng
đầu tư ngân sách cũng như tăng cường quản lý nhà nước đối với giáo dục.
1.4.2.2- Xã hội hoá giáo dục mầm non góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục mầm non, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển nhân cách của trẻ.
XHHGD mầm non huy động được các nguồn lực cho giáo dục mầm non
phát triển. Việc huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào giáo dục góp
phần tạo nên những chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục, mà mục tiêu
hàng đầu của giáo dục là chất lượng, chất lượng nhân cách của những con
người được giáo dục. Nhờ xã hội hoá giáo dục mầm non mà cộng đồng có thể
tham gia vào việc cụ thể hoá mục tiêu giáo dục phù hợp với yêu cầu của địa
phương và cộng đồng. Các lực lượng xã hội có thể tham gia vào việc cải tiến
nội dung và phương pháp giáo dục, tham gia xây dựng môi trường giáo dục
trong sạch lành mạnh, tham gia trực tiếp vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo
dục trẻ mầm non và vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhân cách của thế hệ
trẻ. Xã hội hoá giáo dục mầm non sẽ làm tăng cường lực lượng của người dạy
và học, phát triển yếu tố con người trong giáo dục. Chính xã hội hoá giáo dục
mầm non đã tạo nên những điều kiện vật chất để nâng cao chất lượng giáo
dục mầm non hỗ trợ và tạo nên những thuận lợi cho việc tổ chức quá trình
giáo dục của nhà trường để làm nên chất lượng.
Như vậy, giáo dục mầm non ngoài việc tạo điều kiện để phát huy hiệu
quả của lực lượng lao động hiện tại trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn
hoá - xã hội , đồng thời còn tạo tiền đề để phát triển nguồn nhân lực cho
tương lai. Xã hội hóa giáo dục mầm non là một phương thức phát triển giáo
dục mầm non, làm giáo dục mầm non bằng cách huy động sức mạnh của địa
phương. Đây không phải chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội mà là trách
27
nhiệm của các doanh nghiệp, của mỗi gia đình, của từng cá nhân trong cộng
đồng. Với sức mạnh của cộng đồng, giáo dục mầm non sẽ phát triển đủ mạnh
vì những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Vì vậy, quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương sẽ qui định phương hướng và
mục tiêu phát triển giáo dục ở địa phương đó.
1.4.2.3- Xã hội hoá giáo dục mầm non tạo ra sự công bằng, dân chủ trong
hưởng thụ và trách nhiệm xây dựng giáo dục mầm non.
Thực hiện tốt XHHGD mầm non có nghĩa là xây dựng được cộng đồng
trách nhiệm của mọi lực lượng xã hội để không chỉ “tham gia” mà phải “cùng
làm”. Như vậy, XHHGD mầm non sẽ là giải pháp quan trọng để thực hiện
công bằng xã hội trong phát triển giáo dục mầm non. Công bằng xã hội thể
hiện ở việc đa dạng hoá các hình thức học tập, các loại hình trường, lớp, mở
rộng các cơ hội cho mọi thành phần kinh tế, cho mọi tầng lớp nhân dân chủ
động và bình đẳng tham gia vào các hoạt động giáo dục mầm non. Công bằng
xã hội trong giáo dục mầm non chính là việc hưởng thụ các dịch vụ chăm sóc,
giáo dục, có cơ hội được nuôi dưỡng, học tập bình đẳng như nhau (kể cả trẻ
em ở gia đình hay các nhà trẻ, trường lớp mầm non công lập, bán công, tư
thục, dân lập và ở nhóm trẻ gia đình). Ngoài ra, nó còn thể hiện ở nghĩa vụ
cống hiến cho giáo dục mầm non theo khả năng thực hiện của từng người,
từng cộng đồng và địa phương. Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII đã chỉ rõ: “thực hiện công bằng trong giáo dục người đi
học phải đóng học phí, người sử dụng qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào
tạo, có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều
được đi học” [51, Tr. 62].
Dân chủ hoá giáo dục là một chủ trương lớn trong đường lối giáo dục
của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện dân chủ hoá giáo dục mầm non là nhằm
xoá bỏ tính khép kín của hệ thống giáo dục và trường học, để mọi trẻ em có
cơ hội được hưởng mọi quyền lợi chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và để mọi
người dân có thể thực hiện quyền làm chủ với sự nghiệp giáo dục. Dân chủ
hoá quá trình giáo dục mầm non là dân chủ hoá việc thực hiện mục tiêu, nội
28
dung, phương pháp, phương tiện, đánh giá giáo dục mầm non, thực hiện dân
chủ của người dạy và người học.
Xã hội hoá giáo dục mầm non tạo điều kiện cho các lực lượng xã hội, gia
đình và cộng đồng phát huy tinh thần làm chủ, thực hiện quyền và trách
nhiệm đối với các hoạt động giáo dục mầm non như quyền hưởng thụ lợi ích
và dịch vụ chăm sóc, giáo dục mầm non, tham gia phát triển giáo dục mầm
non.
1.4.2.4- Xã hội hoá giáo dục mầm non sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
Nhà nước, phát huy truyền thống giáo dục của dân tộc.
Mọi chủ trương đường lối, văn bản pháp quy chỉ trở thành hiện thực khi
được quần chúng nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ. Từ chủ trương
“chăm lo phát triển giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường
lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư…” đến những nhiệm vụ cụ thể được đề
ra trong chiến lược phát triển GDMN 2001 - 2010 về việc đa dạng các loại
hình trường, lớp mầm non công lập, bán công, dân lập, tư thục theo quy mô
khác nhau để khai thác nguồn lực, phát triển các hình thức tuyên truyền phổ
biến kiến thức cho các bậc cha mẹ, đáp ứng nhu cầu chăm sóc và giáo dục trẻ
thơ của nhân dân… phải được nhân dân hiểu, đồng tình, ủng hộ và tích cực
tham gia thì các chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mới được thực hiện và có
như vậy công tác quản lý Nhà nước mới thực sự có hiệu lực và hiệu quả.
XHHGD nói chung và XHHGD mầm non nói riêng là chủ trương phù
hợp với truyền thống dân tộc và nguyện vọng của mọi người (truyền thống
hiếu học, truyền thống chăm lo giáo dục vì con cái…), vì thế hệ “hậu sinh”
phải “khả uý” luôn là mong muốn của các thế hệ đi trước. Xã hội hoá giáo
dục mầm non là điều kiện phát huy truyền thống dân tộc, tạo ra sự chỉ đạo
hành động thống nhất toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại: Thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non sẽ góp phần khắc phục
được những khó khăn giải quyết những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát
triển giáo dục mầm non. Qua đó càng thấy rõ vai trò, tầm quan trọng của việc
thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay.
29
1.4.3- Một số nguyên tắc chỉ đạo việc thực hiện công tác XHHGD mầm non
Nguyên tắc là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một
loại việc làm [41, Tr 672]. Vì vậy, muốn thực hiện thành công XHHGD mầm
non trong điều kiện hiện nay cần phải tuân theo sáu nguyên tắc chỉ đạo sau:
1.4.3.1- Nguyên tắc về lợi ích:
Chỉ khi nào xã hội hoá giáo dục mầm non mang lại lợi ích thiết thực thì
mới lôi cuốn được các lực lượng xã hội và cá nhân tham gia phối hợp dưới
các hình thức, mức độ khác nhau. Bởi vậy, mỗi hoạt động hợp tác đều phải
xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của hai phía, mỗi bên tham gia đều tìm thấy, đều
thoả mãn lợi ích của mình.
Từ nguyên tắc này, giáo dục và nhà trường mầm non phải tác động vào
những mặt tích cực, khuyến khích, huy động mọi người cùng chăm lo cho
giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, huy động các nguồn lực
trong nhân dân, phù hợp với khả năng, tiềm năng của nhân dân.
1.4.3.2- Nguyên tắc về chức năng, nhiệm vụ
Từng ban ngành, đoàn thể cũng như từng tổ chức xã hội, từng gia đình
đều có chức năng, nhiệm vụ riêng trong sự phát triển chung của xã hội. Các
ngành thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non không chỉ là sự tham gia mà
còn có trách nhiệm nhất định, như ngành tổ chức cán bộ, lao động thương
binh xã hội, kế hoạch tài chính có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ
chính sách đối với nhà trường, giáo viên, học sinh, các ngành dân số – gia
đình – trẻ em, y tế, thể dục thể thao, công nghệ môi trường và các đoàn thể có
trách nhiệm phối hợp với ngành giáo dục tổ chức việc giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức về bảo vệ chăm sóc trẻ em, về vệ sinh. Tập luyện tăng cường sức
khoẻ, bảo vệ môi trường nuôi dạy con cho các bậc cha mẹ, đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật, công nghệ vào chương trình giáo dục, hỗ trợ nhà trường nghiên
cứu, sản xuất; ngành văn hoá thông tin có chức năng cung cấp các phương
tiện, tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, tuyên truyền…
Theo nguyên tắc này, nhà trường mầm non có cơ sở để vận động, thuyết phục
chứ không phải theo cơ chế “xin - cho”, “làm hộ” hay “ban ơn” cho giáo dục.
1.4.3.3- Nguyên tắc dân chủ – tự nguyện - đồng thuận
30
“Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”, để xã hội hoá giáo dục mầm
non phát huy được hiệu quả thì một nguyên tắc cơ bản cần được đề cao là
“Dân chủ – tự nguyện - đồng thuận”. Đó chính là việc phát huy tính dân chủ,
sự tự nguyện và đồng thuận của cộng đồng trong việc tham gia giáo dục mầm
non.
Dân chủ hoá giáo dục thể hiện ở chủ trương giáo dục mầm non đòi hỏi
mọi trẻ em đều được hưởng quyền được chăm sóc, giáo dục; đảm bảo mục
tiêu trẻ đến trường, lớp mầm non ở các loại hình công lập, ngoài công lập và
ở gia đình đều được chăm sóc, giáo dục chu đáo, đầy đủ. Dân chủ hoá giáo
dục mầm non còn thể hiện ở yêu cầu “công khai hoá” sự đóng góp của dân,
sự tham gia của dân vào giáo dục, nhằm thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất
những điều Luật giáo dục qui định theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra ” trong các hoạt động nhà trường. Như vậy, đã xoá bỏ được
tính khép kín của hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống trường học nói
riêng, tạo điều kiện để mỗi người dân trong cộng đồng có cơ hội nắm được
những thông tin khoa học giáo dục, quản lý giáo dục, chương trình giáo dục…
Đây là điều kiện quan trọng để người dân tham gia ý kiến vào sự nghiệp giáo
dục, đóng góp công sức, tiền của xây dựng giáo dục và có cơ hội được hưởng
những quyền lợi giáo dục chính đáng.
Thực hiện dân chủ hoá trong nhà trường mầm non nhằm phát huy quyền
làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà
trường, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển
giáo dục mầm non. Thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện,
đảm bảo cho các công dân, cơ quan, tổ chức xã hội được quyền giám sát,
kiểm tra, đóng góp ý kiến tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, làm cho
giáo dục thực sự là “của dân, do dân và vì dân”. Dân chủ hoá giáo dục là một
thiết chế đảm bảo quyền lực của nhân dân trong phát triển sự nghiệp giáo dục
và có như vậy mới có thể tạo ra sự tự nguyện, đồng thuận của các lực lượng
khi tham gia giáo dục mầm non. Nó vừa là con đường, vừa là biện pháp tổng
hợp thực hiện xã hội hoá giáo dục. Thực hiện tốt nguyên tắc này mới có thể
huy động được mọi tiềm năng của xã hội vào phát triển giáo dục mầm non.
31
Tuy nhiên, thực hiện dân chủ hoá trong giáo dục phải đảm bảo những
qui định chung của việc thực hiện quy chế dân chủ do Chính phủ qui định,
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, của cán bộ, giáo viên. Dân chủ
hoá giáo dục phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân chủ trong khuôn khổ hiến pháp
và pháp luật. Tránh những biểu hiện lợi dụng dân chủ làm ảnh hưởng không
tốt đến sự ổn định, phát triển của giáo dục, đưa giáo dục đi chệch định hướng
xã hội chủ nghĩa.
1.4.3.4- Nguyên tắc tuân thủ pháp lý
Bất kỳ hoạt động của một tổ chức, một lực lượng, một cá nhân nào trong
xã hội cũng đòi hỏi phải tuân thủ theo những qui định chung về mặt luật pháp.
Quá trình huy động khuyến khích có thể và cần dựa trên cơ sở pháp lý Luật
giáo dục, Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em; các văn bản dưới luật như pháp lệnh,
nghị định, thông tư, nghị quyết của Đảng, của HĐND, UBND các cấp; và kể
cả các qui định, điều lệ như Điều lệ Hội cha mẹ học sinh… đều là cơ sở pháp
lý cho sự vận động các lực lượng xã hội tham gia giáo dục mầm non.
Ngược lại, chính các cơ quan đoàn thể, lực lượng xã hội cũng cần có
những cơ sở pháp lý mới phát huy được chức năng, nhiệm vụ tham gia cùng
làm giáo dục. Chẳng hạn Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải dựa vào
chỉ thị, nghị định, thông tư hướng dẫn… thì mới phát huy được chức năng
quản lý Nhà nước của họ, Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học…. cũng phải
căn cứ vào điều lệ, quy chế hoạt động, các yêu cầu luật pháp cho phép để tổ
chức vận động các thành viên và các lực lượng xã hội tham gia xã hội hoá
giáo dục mầm non.
1.4.3.5- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất ngành – lãnh thổ
Xã hội hoá giáo dục mầm non là một quá trình hợp quy luật, đúng với
bản chất xã hội vốn có của giáo dục, nhưng nó chỉ thực sự phát huy có sự
thống nhất về mục tiêu, yêu cầu, điều kiện thực hiện giữa ngành và lãnh thổ.
Để thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non cần thấy rõ mối tương quan
giữa phát triển kinh tế – giáo dục đối với từng địa phương để có những ưu
32
tiên và tiến độ hợp lý trong việc thực hiện. Việc huy động các lực lượng xã
hội tham gia vào đa dạng hoá các loại hình giáo dục mầm non, phát triển
trường, lớp mầm non cần được xây dựng phù hợp với quy hoạch mạng lưới
trường học trên từng địa bàn đồng thời xây dựng một mạng lưới phổ biến kiến
thức, tư vấn nuôi dạy trẻ đến gia đình, có như vậy mới đảm bảo được mục
tiêu chung của giáo dục mầm non là đảm bảo chăm sóc, giáo dục trẻ trước 6
tuổi một cách có chất lượng và mới mang tính khả thi. Mặt khác, muốn xã hội
hoá giáo dục thực hiện có hiệu quả cần được xem xét trong các mối quan hệ
quản lý nhà nước và quản lý chuyên môn, quản lý theo ngành và quản lý theo
lãnh thổ. Hơn nữa, việc huy động xã hội đầu tư các nguồn lực cho giáo dục
mầm non phát triển cũng cần được tính toán cụ thể, phù hợp, không ỷ lại
trông chờ hoàn toàn vào nhà nước; mà cần phối hợp với sự đóng góp của
nhân dân, kể cả các bậc cha mẹ không có trẻ tới lớp; từ sự đóng góp của các
tổ chức kinh tế xã hội, đóng góp theo nghĩa vụ và tự nguyện của các doanh
nghiệp; từ nguồn viện trợ phát triển, viện trợ không hoàn lại của các nước và
các tổ chức quốc tế. Trong đó, sự phối hợp giữa Nhà nước và nhân dân cần
căn cứ vào tình hình kinh tế cụ thể của từng vùng để khuyến khích đầu tư cho
GDMN.
Chỉ có như vậy, mục tiêu phát triển giáo dục mầm non mới mang tính
khả thi và là một trong những điều kiện cần để tổ chức thực hiện xã hội hoá
giáo dục mầm non thành công.
1.4.3.6- Nguyên tắc kế hoạch hoá mọi hoạt động
Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng để biến những mục tiêu, yêu cầu,
mong muốn của nhà trường thành hiện thực trong việc thực hiện xã hội hoá
giáo dục mầm non. Nếu không thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ dẫn đến hiện
tượng “gặp đâu hay đó”, hiệu quả xã hội hoá giáo dục thấp, thậm chí còn làm
sai lệch bản chất của xã hội hoá giáo dục. Vì vậy, mới đảm bảo hiệu quả của
xã hội hoá mọi hoạt động từ khâu lập kế hoạch, đến khâu tổ chức, điều hành,
chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết, nắm vững thông tin trong từng khâu và xuyên suốt
toàn bộ quá trình.
33