1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC MẦM NON Ở THÀNH PHỐ BẮC GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 132 trang )


của thành phố trên cả hai nội dung: về giáo dục; đào tạo, dạy nghề trên địa

bàn.

- Xây dựng các cơ sở giáo dục; đào tạo, dạy nghề theo hướng chuẩn hoá,

hiện đại hoá, xã hội hoá. Xây dựng các nhà trường đạt tiêu chuẩn “SángXanh-Sạch-Đẹp”

3.1.2- Mục tiêu cụ thể:

- Huy động 32% số trẻ trong độ tuổi ra nhà trẻ, trên 82% trẻ trong độ

tuổi ra lớp mẫu giáo, trong đó trẻ 5 tuổi là 100%; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng

trong nhà trường xuống dưới 10%.

- 100% trẻ 6-10 tuổi đi học tiểu học.

- Huy động 100% số học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào học

lớp 6, duy trì sĩ số đạt trên 99%.

- 75% số người 18-21 tuổi tốt nghiệp THPT

- 100% cán bộ quản lý và giáo viên có trình độ đạt chuẩn; trong đó có

50% cán bộ, giáo viên có trình độ trên chuẩn.

- Có 65% số trường đạt chuẩn quốc gia; 85% số phòng học được xây

dựng kiên cố.

- 30% số người trong độ tuổi lao động được đào tạo nghề

- Năm 2010 đạt phổ cập bậc trung học.

3.1.3- Mục tiêu XHHGD trên địa bàn thành phố Bắc Giang

Quán triệt phương hướng và chủ trương XHHGD theo tinh thần

NQ90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 và Nghị định 73/CP của Chính phủ, mục

tiêu XHHGD của thành phố Bắc Giang đến năm 2010 là: Tiếp tục quán triệt

các chủ trương, Nghị quyết của Đảng về giáo dục và XHHGD một cách sâu

rộng trong toàn hệ thống chính trị; làm cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền,

đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội, các cá nhân và toàn thể cộng đồng nhận

thức sâu sắc về vai trò, vị trí của giáo dục- đào tạo trong giai đoạn phát triển

mới của đất nước, từ đó nâng cao trách nhiệm của các thành viên, các tổ

chức trong việc học tập và hỗ trợ các điều kiện để phát triển sự nghiệp giáo

dục của địa phương. Mở rộng hợp lý quy mô các cấp bọc, bậc học, nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triền kinh

tế – xã hội của địa phương. Thông qua XHHGD góp phần thực hiện thắng lợi

79



các mục tiêu và định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo của địa

phương trong giai đoạn mới (Chương trình hành động của Ban chấp hành

Đảng bộ thành phố Bắc Giang về phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo đến

năm 2010)

3.2- Các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo việc thực hiện XHHGD ở

thành phố Bắc Giang:

3.2.1- Các quan điểm:

- Phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đồng thời coi

trọng tính chất phong trào quần chúng để vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi

của toàn xã hội, của nhân dân vào sự nghiệp phát triển giáo dục ở địa phương.

- Phải tạo ra cơ hội thuận lợi nhất cho mỗi thành viên của xã hội được

hưởng thụ các quyền lợi về giáo dục đồng thời được đóng góp cho các hoạt

động giáo dục. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân tài, vật lực

của xã hội góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Phải xem đây là phương

châm lâu dài nhằm giải quyết các vấn đề theo quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta. Thực tế hiện nay trong thành phố đã có sự phân hoá giàu nghèo rất

lớn, những người trong nội thị nhờ kinh doanh, buôn bán nên có thu nhập

hàng trăm triệu đồng, những người vùng ngoại thị sản xuất nông nghiệp nên

có rất nhiều khó khăn.

- Phải gắn XHHGD với dân chủ hoá giáo dục là giải pháp quan trọng

thực hiện chính sách công bằng xã hội trong giáo dục. Công bằng trong

hưởng thụ và đóng góp, cống hiến, thực hiện ưu tiên cho những xã khó khăn,

các đối tượng chính sách, học sinh nghèo, khuyết tật, trẻ mồ côi.

3.2.2- Các nguyên tắc:

Nguyên tắc tính lợi ích:

Mỗi hoạt động hợp tác đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các

bên tham gia. Có thể là lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân hay lợi ích xã hội , đáp

ứng yêu cầu của các bên trong quan hệ song phương hoặc đa phương.

Nguyên tắc này tạo động lực cho sự tham gia và bảo đảm cho việc tiếp tục các

hoạt động sau này.

80



Nhà trường dạy có chất lượng thì các vị phụ huynh sẽ gắn bó và ủng hộ

nhà trường. Cha mẹ học sinh phải tìm thấy lợi ích từ sự học tập, từ nhà

trường. Một khi lợi ích đó được đáp ứng thì họ sẵn sàng làm tất cả vì con em

họ, vì nhà trường.

Các cơ quan, tổ chức xã hội, các đơn vị sản xuất cũng đều có ý thức về

lợi ích này. Bản thân nhà trường cũng từ nhu cầu của mình mà làm XHHGD

đồng thời cũng phải phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, ở cộng

đồng dân cư.

Nguyên tắc tính hiệu quả:

Hiệu quả của từng hoạt động gắn với tính lợi ích. Mọi hoạt động đều

đem lại kết quả cụ thể để tạo niền tin cho hoạt động tiếp sau, đảm bảo niền

hứng khởi cho các hoạt động tiếp theo, từ chỗ các lực lượng xã hội tham gia

hoạt động theo yêu cầu đến chỗ tự giác, tích cực.

Vì thế, các trường phải biết chọn những việc nào cần huy động cộng

đồng và đã làm là phải có chất lượng, hiệu quả. Thực tế ở những trường làm

tốt điều đó chứng tỏ cho cộng đồng thấy sự cố gắng của thầy cô, sử dụng có

hiệu quả các nguồn đầu tư của xã hội.

Nguyên tắc đảm bảo chức năng, nhiệm vụ phù hợp với nhau:

Mỗi tổ chức, lực lượng xã hội đều có chức năng, nhiệm vụ riêng. Do

vậy, để phối hợp với họ phải đúng người, đúng việc. Chức năng, nhiệm vụ

của mỗi lực lượng trong công tác giáo dục xuất phát từ chức năng của tổ chức

đó, có thể đã được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ quy định trong văn bản

pháp luật hay những văn bản của cộng đồng, của địa phương.

Hội phụ nữ có chức năng chăm sóc, giáo dục trẻ, họ sẵn sàng phối hợp

với nhà trường chăm sóc trẻ.

Đảng uỷ và chính quyền địa phương có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo sự

nghiệp giáo dục nên việc tham mưu của nhà trường, của ngành giáo dục

không phải là van xin, nhờ cậy.

Nguyên tắc đảm bảo tính pháp lý:



81



Việc khuyến khích, huy động cộng đồng, cơ sở để thuyết phục, tham

mưu của nhà trường và ngành giáo dục cần dựa trên cơ sở pháp lý. Đã có các

văn bản của Đảng, Nhà nước như sau:

Nghị quyết 04-Ban chấp hành Trung ương (khoá VII), Nghị quyết 02 Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII). Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VII, VIII và IX đều có phần nói về xã hội hoá giáo dục.

Hiến pháp (các điều 31, 33, 35, 59, 65, 66). Luật giáo dục năm 2005,

Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, các văn bản dưới luật như Quyết

định 124-CP của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng giáo dục ở

các cấp.

Điều lệ tổ chức và hoạt động của Hội đồng giáo dục ở các cấp chính

quyền địa phương của Bộ Giáo dục; Thông tư liên tịch của Bộ Giáo dục và

Công đoàn Giáo dục Việt Nam về tham mưu mở Đại hội giáo dục cấp cơ sở,

Điều lệ hội cha mẹ học sinh.

Trên cơ sở đó các cấp uỷ Đảng có các nghị quyết, Hội đồng nhân dân ra

nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ra chỉ thị, chủ trương, kế hoạch thực hiện. Các tổ

chức quần chúng, tổ chức xã hội cũng có những văn bản riêng phù hợp với

chức năng của mình và sự chỉ đạo của Đảng. Cộng đồng xã hội ở xã, phường

và thành phố có nghị quyết của đại hội giáo dục cơ sở hay của địa phương

thành phố, tất cả hợp thành một hệ thống pháp lý phát huy chức năng lãnh đạo

của Đảng, quản lý của Nhà nước trong xã hội, làm công tác XHHGD là hoạt

động có cơ sở vững chắc, hiệu quả.

Nguyên tắc luôn phát huy truyền thống, tình cảm tốt đẹp của dân tộc:

Với những cơ sở pháp lý, quá trình vận động, thuyết phục cần kết hợp với việc:

- Phát huy truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đề cao sự học, giá trị

của học vấn.

- Khơi dạy những tình cảm sâu sắc đối với thế hệ trẻ.

- Danh dự của cộng đồng, địa phương, của gia tộc, vinh quang của cá

nhân. Tuỳ theo từng hoàn cảnh, công việc mà vận dụng linh hoạt, sáng tạo

một hay một số nguyên tắc cho phù hợp.

3.3- Một số biện pháp quản lý công tác XHHGD mầm non ở thành phố

Bắc Giang

82



3.3.1- Tổ chức giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về công tác XHHGD mầm non.

Nhận thức đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn của

mỗi con người. Thực tế ở thành phố Bắc Giang đã chứng minh rằng, một

trong những nguyên nhân thành công hoặc chưa thành công trong việc quản

lý công tác xã hội hoá giáo dục mầm non chính là vấn đề nhận thức. Quần

chúng phải hiểu đúng bản chất của công tác xã hội hoá giáo dục mầm non, sự

cần thiết phải tham gia giáo dục, nâng dần tính tự giác, tích cực, chủ động,

tình cảm và năng lực hoàn thành công việc này. Chính vì vậy, phải tăng

cường công tác tuyên truyền, giáo dục, cung cấp thông tin một cách đầy đủ về

đường lối, chủ trương, mục đích, yêu cầu, thuận lợi khó khăn… nhằm làm

chuyển biến tích cực nhận thức của mọi người về vai trò vị trí của giáo dục

nói chung và giáo dục mầm non nói riêng, về bản chất, nghĩa vụ và quyền lợi

của công tác XHHGD mầm non, để quần chúng có đủ hiểu biết, chủ động

tham gia vào giáo dục.

Kết quả điều tra cho thấy, ở tất cả các đối tượng được điều tra là cán bộ

quản lý, giáo viên mầm non và cha mẹ học sinh đều cho biện pháp quan trọng

số một là “tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi người về vai

trò, tầm quan trọng của giáo dục, công tác xã hội hoá giáo dục, trách nhiệm

tham gia giáo dục”

3.3.1.1- Đối tượng và nội dung thực hiện.

Các cán bộ quản lý giáo dục mầm non đóng vai trò nòng cốt trong việc

tổ chức thực hiện tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi người về giáo

dục. Đối tượng đầu tiên cần phải nhận thức đúng đắn đầy đủ về công tác xã

hội hoá giáo dục mầm non là cán bộ, giáo viên. Song trong một bộ phận cán

bộ, giáo viên của ngành còn nhận thức chưa đầy đủ về bản chất công tác xã

hội hoá giáo dục mầm non, nên bản thân chưa thực sự tham gia tích cực vào

việc huy động cộng đồng tham gia giáo dục. Vì vậy, trong bản thân ngành

cũng cần tăng cường bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ nhận thức đúng đắn, đầy đủ

và thực hiện có hiệu quả hơn nữa.

Đối tượng tiếp theo cần tác động là các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa

phương. Cần phải làm chuyển biến nhận thức của các cấp uỷ Đảng và chính

quyền địa phương về vấn đề công tác xã hội hoá giáo dục mầm non, để từ đó

83



có sự quan tâm đầy đủ đến vấn đề này. Cần làm cho họ hiểu rõ đây là trách

nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền địa phương trước nhân dân. Chỉ có họ mới

có đủ vai trò và tư cách để tập hợp các ngành, các lực lượng xã hội liên kết,

hợp tác nhau. Thực tế cho thấy rằng, nơi nào cấp uỷ Đảng, lãnh đạo địa

phương nhận thức đúng đắn và đầy đủ tầm quan trọng của công tác xã hội hoá

giáo dục, lắng nghe ý kiến tham mưu của ngành giáo dục, chủ động trong việc

chỉ đạo vận động toàn xã hội tham gia xây dựng giáo dục, thì nơi đó sự

nghiệp giáo dục mầm non phát triển mạnh và đúng hướng.

Mặt khác, cũng cần khắc phục nhận thức chưa đúng ở một bộ phận cấp

uỷ Đảng và chính quyền địa phương, coi việc huy động cộng đồng tham gia

giáo dục mầm non chính là làm thay cho chính quyền, từ đó có tư tưởng

khoán trắng giáo dục cho xã hội, hoặc cho một mình ngành giáo dục.

Đối với các lực lượng xã hội và nhân dân, cần phải làm cho mỗi người

thấy rằng, chỉ có thể làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục mầm non, mới có

thể đáp ứng được yêu cầu xây dựng lớp người mới phục vụ công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Trên cơ sở

mục tiêu giáo dục, mỗi cơ quan đoàn thể, mỗi cá nhân trong cộng đồng có thể

tham gia vào một số việc nhất định phù hợp với khả năng và điều kiện của

mình, để góp phần thiết thực vào công tác xã hội hoá giáo dục mầm non ở địa

phương mình đang sinh sống. Cần làm cho mọi người thấy rõ công tác xã hội

hoá giáo dục mầm non sẽ mang lại những thành quả to lớn nhờ sức mạnh của

toàn Đảng, toàn dân.

Các nội dung tuyên truyền cần tập trung vào tuyên truyền Nghị quyết

Hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về giáo dục - đào

tạo, tuyên truyền phổ biến và quán triệt nội dung “Luật giáo dục năm 2005”,

đưa “Luật giáo dục năm 2005” vào cuộc sống. Để từ đó mọi người đều có

nhận thức đúng đắn giáo dục là quốc sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc,

là hạnh phúc của mỗi gia đình, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển,

giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Kết hợp chặt chẽ ba

môi trường giáo dục: nhà trường - gia đình và xã hội, tạo môi trường giáo dục

lành mạnh, thống nhất ở mọi nơi, mọi lúc, trong từng gia đình, từng tập thể và

cộng đồng. Phát triển giáo dục phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội

84



của địa phương. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, mở rộng đa dạng

hoá các loại hình giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em, từng bước

hiện đại hoá các hình thức, điều kiện giáo dục.

3.3.1.2- Biện pháp thực hiện.

Phải bằng nhiều con đường, nhiều hình thức tổng hợp tác động đến nhận

thức của mọi người. Ngoài những hình thức mang tính truyền thống như tổ

chức các buổi học tập, triển khai các nghị quyết, văn bản có liên quan đến

giáo dục, các buổi sơ, tổng kết công tác xã hội hoá giáo dục, cần có những

hình thức tuyên truyền mạnh mẽ hơn, tích cực hơn, như biên soạn các tài liệu

ngắn gọn, các tờ rơi phát cho cha mẹ học sinh, các hộ gia đình, các tổ chức

kinh tế – xã hội; chỉ đạo việc tuyên truyền trên hệ thống loa thông tin, bảng

tin, pa nô, áp phích, góc tuyên truyền các bậc cha mẹ của 11 xã, phường và

các trường mầm non trong toàn thành phố một cách đồng bộ, có kế hoạch và

nội dung được chỉ đạo từ thành phố xuống đến xã, phường; tăng cường tuyên

truyền trên hệ thống thông tin đại chúng; mở các lớp bồi dưỡng kiến thức cho

các bậc cha mẹ trẻ, tổ chức các câu lạc bộ các nhà hảo tâm với giáo dục, các

buổi nói chuyện chuyên đề, toạ đàm, trao đổi, hội thảo về các nội dung giáo

dục mầm non và công tác xã hội hoá giáo dục mầm non; xây dựng mạng lưới

thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về giáo dục - đào tạo, giáo dục mầm non

cho các tổ chức và cá nhân quan tâm. Đặc biệt, phát huy vai trò của các thành

viên của Hội đồng giáo dục các cấp, như là một tuyên truyền viên đối với mỗi

ngành, mỗi tập thể mà mình phụ trách . Với giáo dục mầm non, cần xây dựng

một mạng lưới tuyên truyền viên bao gồm giáo dục, phụ nữ, uỷ ban bảo vệ

chăm sóc trẻ em, y tế đến tận gia đình trong địa bàn nhà trường để tuyên

truyền.

3.3.2- Xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu

phát triển sự nghiệp giáo dục, kinh tế – xã hội của địa phương.

3.3.2.1- Nội dung thực hiện

Xây dựng kế hoạch là khởi điểm của một quá trình quản lý ở bất kỳ một

chủ trương, chương trình, hoạt động nào. Để thực hiện thành công công tác xã

hội hoá giáo dục mầm non, các cán bộ quản lý giáo dục mầm non cần phải lập

được kế hoạch phát triển giáo dục mầm non tại địa bàn mình phụ trách, vạch

85



ra các mục tiêu, quyết định phương thức đạt được mục tiêu. Song một điểm

đáng lưu tâm là kế hoạch này phải mang tính khả thi, phục vụ cho yêu cầu

phát triển giáo dục kinh tế – xã hội của địa phương. Kế hoạch phải xây dựng

được quy mô phát triển tổng thể và từng giai đoạn cụ thể, thể hiện được tầm

nhìn chiến lược và yêu cầu thực tiễn của giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Để xây dựng được một kế hoạch đáp ứng yêu cầu trên, các nhà quản lý

giáo dục mầm non ở Phòng giáo dục và các trường mầm non cần căn cứ vào

đặc điểm tình hình cụ thể của nhà trường, của địa phương, những thuận lợi

khó khăn, chỉ tiêu cần đạt về số lượng, chất lượng, điều kiện thực hiện, xác

định những biện pháp cụ thể nhằm hướng tới mục tiêu cần đạt của công tác xã

hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Giang.

3.3.2.2- Biện pháp thực hiện.

Khác với trước, thường là cấp trên hoặc cơ quan chủ quản đề ra kế

hoạch, yêu cầu mọi người thực hiện, thì nay ngoài sự chủ động của ngành

giáo dục và các trường mầm non còn cần phải lôi cuốn mọi người tham gia

ngay từ khâu xây dựng kế hoạch. Cần phải thu thập ý kiến, nguyện vọng, nhu

cầu của mọi lực lượng để đề ra chỉ tiêu. Mọi người cần được bàn bạc và định

ra những chỉ tiêu, biện pháp sát thực, hợp lý nhất. Một kế hoạch như vậy

không mang tính áp đặt, mà là một kế hoạch do chính mọi người đề ra, cùng

thực hiện và cùng chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện.

Chỉ trên cơ sở xây dựng được một kế hoạch có tính khả thi, mới có thể

tham mưu thuyết phục được các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo địa phương ủng hộ

phê duyệt, mới có thể lôi cuốn các ngành, các cấp, các đoàn thể cùng vào

cuộc tham gia tháo gỡ và thực hiện các yêu cầu cho sự phát triển giáo dục

mầm non. Và cũng phải trên cơ sở kế hoạch đem lại lợi ích thiết thực cho xã

hội, cho địa phương và cho mỗi gia đình, thì các lực lượng xã hội, cha mẹ học

sinh mới sẵn sàng ủng hộ, hỗ trợ cho giáo dục phát triển.

Chính vì vậy, việc xây dựng kế hoạch đòi hỏi các cán bộ quản lý giáo

dục mầm non phải có tầm nhìn bao quát, chủ động, phát huy quyền tự chủ,

tranh thủ sự tham gia ủng hộ của các lực lượng xã hội, biết phân tích, sàng lọc

để kế hoạch phát triển của trường gắn với địa phương, đáp ứng được yêu cầu

86



phát triển của ngành và từ đó mới có thể khẳng định được vị trí của nhà

trường ở địa phương.

3.3.3- Tổ chức huy động các lực lượng xã hội tham gia công tác xã hội hoá

giáo dục mầm non

Mấu chốt của công tác xã hội hoá Giáo dục mầm non là phải làm sao

huy động được đông đảo các lực lượng xã hội tham gia vào công tác giáo dục

mầm non. Vì vậy, công tác quản lý cần tập trung vào biện pháp để huy động

các lực lượng xã hội tham gia vào công tác Giáo dục mầm non.

3.3.3.1- Đối tượng và nội dung vận động

Để thuận lợi cho công tác quản lý, chúng tôi chia đối tượng vận động

thành 2 nhóm đối tượng. Nhóm thứ nhất bao gồm các cơ quan, ban ngành

thuộc hệ thống quản lý nhà nước. Nhóm thứ hai là các tổ chức xã hội, đoàn

thể, các tầng lớp nhân dân, cá nhân trong và ngoài tỉnh.

Ở nhóm thứ nhất, cần đặc biệt quan tâm đến các ban ngành có sự liên

quan trực tiếp đến Giáo dục mầm non, như ngành y tế, phòng tài chính, phòng

tổ chức chính quyền, uỷ ban dân số- gia đình và trẻ em, phòng văn hoá thông

tin, phòng xây dựng đô thị, phòng kế hoạch tài chính, ban quản lý các dự án,

phòng lao động thương binh – xã hội …

Ngành y tế, uỷ ban dân số - gia đình và trẻ em trực tiếp tham gia vào

việc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mầm non, phối hợp tổ chức bồi dưỡng kiến

thức nuôi dạy trẻ cho các bậc cha mẹ, vệ sinh môi trường.

Phòng tổ chức hành chính, lao động thương binh - xã hội có liên quan

nhiều đến vấn đề nhân sự, chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ - giáo viên –

nhân viên ngành mầm non và một số dự án có liên quan đến giáo dục hoà

nhập cho trẻ khuyết tật trong các trường mầm non .

Ngành văn hoá thông tin có nhiều điều kiện và trách nhiệm tham gia

phối hợp cùng với ngành giáo dục để tổ chức các hoạt động văn hoá, văn

nghệ cho trẻ em mầm non và tuyên truyền cho giáo dục mầm non cũng như

chủ trương công tác xã hội hoá giáo dục mầm non, xây dựng nếp sống mới,

đời sống văn hoá ở khu dân cư…

87



Việc huy động các ban ngành này có thuận lợi cơ bản là với các chức

năng quản lý nhà nước, thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước, trong

đó có giáo dục, các cơ quan này có trách nhiệm tạo ra những điều kiện phục

vụ cho giáo dục mầm non, tham gia một phần vào công tác giáo dục mầm

non. Việc huy động được các đối tượng ở nhóm thứ nhất tham gia vào công

tác giáo dục, cùng làm giáo dục, chứ không phải chỉ dừng ở góc độ “ hỗ trợ”,

“làm hộ” như kiểu “ban ơn”, sẽ tạo cho giáo dục mầm non những bước phát

triển mạnh mẽ.

Ở nhóm thứ hai, cần tập trung vào các tổ chức xã hội, đoàn thể, như hội

cha mẹ học sinh, Hội liên hiệp phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn

thanh niên, Hội cựu chiến binh, các gia đình và tổ chức xã hội, các nhà hảo

tâm trong và ngoài tỉnh.

Hội cha mẹ học sinh đóng vai trò hết sức to lớn trong việc tham gia vào

giáo dục. ở Thành phố Bắc Giang cũng như các nơi khác trong tỉnh Bắc

Giang , hơn 80% kinh phí hoạt động thường xuyên của các trường mầm non

là do cha mẹ học sinh đóng góp, ngoài ra cha mẹ học sinh còn tham gia trực

tiếp vào các quá trình giáo dục trẻ. Người thầy đầu tiên của trẻ chính là cha

mẹ và những người thân trong gia đình. Cha mẹ học sinh còn tích cực đóng

góp công sức, trí tuệ, sưu tầm các tài liệu, phối hợp chặt chẽ với nhà trường

xây dựng môi trường giáo dục thuận lợi, thống nhất.

Hội liên hiệp phụ nữ là tổ chức đã thường xuyên có sự phối hợp chặt chẽ

gắn bó với giáo dục mầm non trong hầu hết các chương trình, dự án mang tính

xã hội, như tham gia khảo sát vận động trẻ trong độ tuổi, trẻ 5 tuổi, trẻ khuyết tật

đi học tại các lớp hoà nhập, quản lý nhóm trẻ gia đình, tuyên truyền về công tác

nuôi dạy con theo khoa học, động viên chị em xây dựng gia đình văn minh hạnh

phúc…

Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội cựu chiến binh đã

tham gia giáo dục tuyên truyền vận động nhân dân, các tổ chức từ thiện, các

nhà hảo tâm góp phần đa dạng hoá các loại hình giáo dục mầm non, đóng góp

các nguồn nhân lực cho giáo dục mầm non phát triển .

88



3.3.3.2- Biện pháp thực hiện

Từ việc xác định các nhóm đối tượng, vai trò, tác dụng, tiềm năng của

các lực lượng xã hội tham gia vào giáo dục mầm non, cần phải biết cách tổ

chức thu hút chú ý sự tham gia của các lực lượng một cách có hiệu quả.

Trong công tác quản lý, thành phố Bắc Giang tổ chức các lực lượng xã

hội tham gia vào 3 khâu chủ yếu của công tác XHHGD mầm non là xây dựng

kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động.

Phải thực sự lôi cuốn, thu hút được các lực lượng xã hội tham gia vào

xây dựng kế hoạch, nhất là đối với nhóm đối tượng thứ nhất, có như vậy mới

đảm bảo những điều kiện cơ bản cho sự thành công của kế hoạch. Mặt khác,

sự tham gia của nhóm đối tượng thứ hai cũng đã chỉ rõ các chỉ tiêu, biện pháp

cụ thể để có thể huy động cộng đồng tham gia giải quyết những nhiệm vụ của

giáo dục mầm non. Chính vì vậy, ngành giáo dục cần tham mưu với lãnh đạo

Thành phố để các cấp uỷ Đảng, uỷ ban nhân dân trực tiếp đứng ra tổ chức hội

nghị tham gia góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục hàng năm,

với những dự án, chương trình lớn mang tính cộng đồng. Chỉ trên cơ sở đó,

các ban ngành, đoàn thể, lực lượng xã hội mới thực sự đóng góp, xây dựng kế

hoạch. Kế hoạch khi đó không phải là của ngành giáo dục, của cấp trên là uỷ

ban nhân dân Thành phố áp đặt xuống, mà nó trở thành kế hoạch của mọi

ngành, mọi cấp, mọi lực lượng cùng góp công xây dựng và thực hiện kế

hoạch. Thông qua hội nghị, với sự tham góp của mọi người, nghị quyết của

hội nghị trở thành yêu cầu, pháp lệnh cho các ban ngành, đoàn thể cùng vào

cuộc thực hiện các mục tiêu mà kế hoạch đã đặt ra.

Trong kế hoạch cần phải có sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng,

hợp lý cho từng tập thể, từng cá nhân. Sự phân công này phải được dựa trên

cở sở chức năng của từng tổ chức, ban ngành, khả năng của từng người, với

những chỉ tiêu giao việc cụ thể để có thể đánh giá được kết quả. Từ đó các lực

lượng có đủ tư cách để thực hiện, phát huy tính chủ động sáng tạo nhằm hoàn

thành nhiệm vụ được giao. Ngành giáo dục với chức năng là cơ quan thường

trực, có trách nhiệm tổ chức, phân công và phối hợp các nhiệm vụ và nguồn

89



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

×