Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.63 KB, 60 trang )
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
nợ khác được phân vào nhóm 3
Nhóm 4 - Nợ nghi ngờ: Bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 180-360 ngày; các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90-180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản
nợ khác được phân vào nhóm 4
Nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn: Bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các
khoản nợ khác được phân vào nhóm 5
+ Căn cứ vào khả năng thu hồi của khoản nợ:
Nợ xấu có khả năng thu hồi: là khoản nợ xấu mà Ngân hàng nhận thấy tình hình tài
chính của khách hàng có dấu hiệu tốt lên để có khả năng trả nợ cho NH trong thời gian tới.
Nợ xấu không có khả năng thu hồi: là khoản nợ xấu mà NHTM xác định đã không
còn khả năng thu hồi trong trường hợp khách hàng đã giải thể, mất tích….
+ Căn cứ vào cơ sở hạch toán:
Nợ xấu nội bảng: Là các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3, 4 và nhóm 5 được
hạch toán trong Bảng cân đối kế toán của Ngân hàng thương mại.
Nợ xấu ngoại bảng: Là các khoản nợ xấu đã được xử lý Dự phòng rủi ro hoặc các số
dư cam kết ngoại bảng được phân vào nhóm nợ xấu và được hạch toán ngoài bảng cân đối
kế toán của NHTM.
Ngoài các cách phân loại trên ta còn căn cứ vào tính nghiêm trọng và mức độ rủi ro của từng
khoản nợ để phân loại. Người ta tiến hành phân tích toàn bộ dư nợ tín dụng của NHTM và
xếp chúng vào các nhóm nợ khác nhau thành những nhóm nợ an toàn và nhóm không an
toàn hay nhóm nợ xấu.
1.2.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Tổng số nợ xấu: Là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ các khoản
nợ xấu của Ngân hàng. Chỉ tiêu này chỉ đơn thuần cho biết tổng số nợ, nó chưa thể hiện
được trong tổng số nợ đó, nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu, nợ có khả năng thu
hồi là bao nhiêu hay nói cách khác nó chưa là chỉ tiêu phản ánh nợ xấu đã được phân loại.
Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ: Đây còn được gọi là tỷ lệ nợ xấu của
Ngân hàng. Theo quan điểm của NHNN Việt Nam thì các NHTM có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%
là khá tốt và không phải thực hiện một số Báo cáo cho NHNN. Tỷ lệ này cho ta biết với
100 đơn vị tiền tệ NHTM cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ NHTM xác định là khó
có khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng thời hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ
này càng cao thì khả năng xảy ra rủi ro càng cao. Tuy nhiên, các con số được sử dụng để
tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính
xác chất lượng tín dụng của một Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ khó đòi (nợ có tuổi nợ cao nhưng chưa có khả năng thu hồi)/tổng dư nợ:
Các chỉ số này phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi. Đây là chỉ tiêu phản ánh thực tế
12
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
nguy cơ mất vốn của NHTM. Tỷ lệ này càng lớn thì nguy cơ mất vốn của NHTM càng cao
Tỷ lệ Quỹ Dự phòng rủi ro/ Nợ xấu: Tỷ lệ này cao cho biết quỹ Dự phòng rủi ro có
khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất
vốn. Tỷ lệ này cao có nghĩa là khả năng Quỹ dự phòng rủi ro bù đắp thiệt hại có thể xảy ra
trong quá trình hoạt động kinh doanh và ngược lại.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu
Mầm mống của nợ xấu phát sinh từ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Chính vì vậy,
việc nhận biết ban đầu của nợ xấu xuất phát từ sự nhận biết có rủi ro tín dụng xảy ra.
- Từ phía các Ngân hàng: Khách hàng thanh toán nợ không đúng kế hoạch; Kỳ hạn của các
khoản vay bị thay đổi liên tục; Khách hàng yêu cầu gia hạn nợ liên tục (vốn gốc trước mỗi
lần gia hạn giảm không đáng kể), nên kỳ hạn của các khoản nợ bị thay đổi liên tục.
- Từ phía Khách hàng:
+ Thị trường của mặt hàng cho vay có biến động theo hướng không tích cực trong khi
khách hàng chưa tiêu thụ được mặt hàng do Ngân hàng đang tài trợ vốn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng vay có biểu hiện nhiều khó khăn như: Mất cân đối
vốn, số lượng tồn kho nhiều đột biến, công nợ phải thu khó đòi phát sinh, tỷ suất sinh lời
trên tài sản (ROA) thấp, tỷ suất sinh lời trên vốn (ROE) thấp..
+ Khách hàng thiếu hợp tác trong việc cung cấp thông tin cho Ngân hàng; Khách hàng có
yêu cầu gia hạn nợ đối với các khoản vay; Tài sản thế chấp không đủ tiêu chuẩn theo các
quy định hiện hành.
1.2.5. Tác động của Nợ xấu
-
Tác động của Nợ xấu đối với hoạt động của Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính, là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ
thực hiện chức năng tín dụng. NHTM là cầu nối giữa cung và cầu tiền tệ trong nền kinh tế.
Do đó, sự biến động của NHTM sẽ ảnh hưởng xấu đến chính hệ thống Ngân hàng và nền
kinh tế. Nợ xấu của Ngân hàng là một trong những nguyên nhân gây ra ảnh hưởng nói trên.
Nợ xấu xảy ra sẽ tác động đến bản thân Ngân hàng, cụ thể như sau:
Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng thương mại: Lợi nhuận là cái đích mà bất
kỳ đơn vị kinh doanh nào đều cần đạt tới. Khi nợ xấu phát sinh, Ngân hàng cần phải trích
lập Dự phòng rủi ro và các khoản trích lập này sẽ phải trừ vào phần lợi nhuận. Như vậy khi
nợ xấu càng nhiều, số tiền trích lập càng cao thì phần giảm trừ vào lợi nhuận sẽ càng cao.
Nợ xấu ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh của NHTM:
Các khoản vay của NHTM không được thanh toán đúng hạn, hoặc khi chuyển sang quá hạn
thì việc thu nợ không đúng kế hoạch sẽ gây ra thiếu hụt vốn so với kế hoạch dự tính của
NHTM. Nếu số lượng tiền nợ quá hạn lớn thì có thể khiến NH rơi vào tình trạng khó khăn
về vốn.
Nợ xấu làm giảm uy tín của Ngân hàng thương mại: Những ảnh hưởng của Nợ xấu
13
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
dẫn đến lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán giảm... Điều này tác động sâu sắc tới tâm lý
khách hàng, làm giảm uy tín của Ngân hàng trong mắt khách hàng so với các đối tác. Trong
lĩnh vực Ngân hàng uy tín tuyệt đối quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của
Ngân hàng.
Nợ xấu làm ảnh hưởng đến tâm lý cán công nhân viên: Khi NHTM làm ăn không hiệu quả,
để tình hình nợ xấu xảy ra với tỷ lệ lớn không những sẽ gây tâm lý hoang mang cho khách
hàng mà còn cho chính nhân viên Ngân hàng và sẽ gây ra hiện tượng cán bộ NH không tin
tưởng vào khả năng kinh doanh của NH và dẫn tới hiện tượng cán bộ công nhân viên xin
thôi việc.
- Tác động của Nợ xấu đối với nền kinh tế
Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và cơ cấu kinh tế vĩ mô là quan hệ tương tác hai
chiều. Nợ xấu có tác động đến nền kinh tế như sau:
+ Làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các Tổ chức tín dụng, giảm vòng
quay vốn, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, giảm nộp Ngân sách Nhà
nước.
+ Khu vực NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất vốn và rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán. Sự hoạt động yếu kém và tỷ lệ nợ xấu lớn, nguy cơ dễ đổ vỡ
của các NHTM làm giảm tính hiệu quả của cơ chế thị trường, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả
thực thi chính sách kinh tế vĩ mô. Một hệ thống Ngân hàng yếu kém với tỷ lệ nợ xấu cao ảnh
hưởng đến triển vọng tăng trưởng kinh tế, là gánh nặng lên Ngân sách và gây tác động tiêu
cực đến sự vận hành của hệ thống tỷ giá hối đoái.
+ Sự lành mạnh của hệ thống Ngân hàng phản ánh sự lành mạnh của nền kinh tế. Trong
điều kiện chi phí của NHTM tăng cao do nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay khiến
cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và ngay cả Chính Phủ cũng có thể gặp khó khăn trong
việc trả số nợ hiện tại của họ.
1.3. Quản lý nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại
1.3.1. Mục tiêu quản lý nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại
- Khái niệm quản lý nợ xấu: Quản lý nợ xấu là một quá trình xây dựng và thực hiện các
chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng để đạt được các mục tiêu là an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, trong đó cần tăng cường các biện pháp nhằm phòng
ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh, từ
đó làm tăng doanh thu, giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Mục tiêu của việc quản lý nợ xấu: Hoạt động tín dụng đem lại thu nhập lớn nhất cho ngân
hàng. Tổn thất nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập, có thể thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng.
Vì vậy, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi NHTM.
Mục tiêu của quản lý nợ xấu tại mỗi ngân hàng vào các thời điểm khác nhau là khác nhau.
Tuy nhiên, theo một cách chung nhất thì mục tiêu của quản lý nợ xấu trong bất kỳ hoàn cảnh
14
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
nào và đối với bất kỳ ngân hàng nào thì đó chính là việc phải xây dựng và thực thi được một
quy chế, chính sách sàng lọc khách hàng phù hợp với từng thời kỳ sao cho phải hạn chế đến
mức thấp nhất rủi ro không thể thu hồi được của các khoản vay mà không ảnh hưởng tới
mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng
1.3.2. Nội dung và quy trình quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
- Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu
Việc xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu có vai trò quan trọng trong quản lý nợ xấu. Chỉ tiêu về
nợ xấu không chỉ giúp định hướng mà còn có tác động trực tiếp đến công tác xử lý nợ xấu
phát sinh.
Chỉ tiêu về nợ xấu thường được xây dựng cho một thời kỳ hoặc một khoảng thời gian
nhất định (thường là một năm) trên cơ sở nền kinh tế vĩ mô, quy mô tín dụng, cơ cấu ngành
và đặc điểm về nguồn nhân lực của Ngân hàng. Tùy điều kiện và mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu về
nợ xấu có thể được xây dựng theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng. Chỉ tiêu về nợ xấu cần
đảm bảo các nội dung định lượng (tỷ lệ phần trăm so với tổng dư nợ, doanh số đầu kỳ phát
sinh) và định tính (định hướng theo ngành, theo thời gian, theo địa bàn...)
- Ngăn ngừa nợ xấu phát sinh
Tăng cường kiểm soát đối với hoạt động tín dụng thông qua các biện pháp như sau:
Xây dựng hệ thống văn bản quy định điều chỉnh công tác tín dụng phù hợp, hiệu quả:
Ban hành hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng theo hướng kiểm
soát tín dụng đảm bảo hiệu quả cấp tín dụng an toàn, giảm thiểu rủi ro tín dụng xảy ra đối
với các khoản cấp tín dụng. Hệ thống các văn bản pháp luật muốn đạt tính hiệu quả cao đòi
hỏi phải phù hợp với từng thời kỳ của tình hình thị trường, khung pháp lý của Chính Phủ và
các cơ quan quản lý Nhà nước.
Xây dựng quy trình thẩm định tín dụng hiệu quả: Để xây dựng được quy trình thẩm
định tín dụng hiệu quả trước hết phải xuất phát từ hệ thống văn bản quy định quy trình thẩm
định tín dụng đảm bảo nguyên tắc phát hiện và hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt nhất.
Khi đã có được quy trình tín dụng chặt chẽ thì sự tuân thủ các quy trình tín dụng là điều cần
thiết kết hợp với các yếu tố khác để có được chất lượng tín dụng tốt nhất.
Chú trọng công tác đào tạo cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định tín dụng: Yếu tố
con người là rất cần thiết để có được chất lượng tín dụng hiệu quả. Để Có chất lượng tín
dụng hiệu quả đòi đội ngũ cán bộ thẩm định phải có chuyên môn nghiệp vụ cao, đủ khả
năng xem xét và phát hiện rủi ro đối với từng khoản vay mà ngân hàng đã duyệt cho vay.
Ngoài chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng phải là những người có tâm với nghề để
giảm thiểu rủi ro đạo đức.
Thực hiện tốt công tác trích lập Dự phòng rủi ro tín dụng: Để góp phần vào việc
ngăn ngừa nợ xấu phát sinh thì công tác trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là khá cần thiết.
Thực hiện đúng, đầy đủ việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trước tiên là việc tuân thủ
đúng theo quy định của NHNN, tiếp đến là tạo cho Ngân hàng một nguồn tiền gọi là Quỹ dự
15
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
phòng rủi ro để có thể lấy ra xử lý nợ xấu trong trường hợp cần thiết. Chính vì vậy mà mỗi
NHTM cần phải xây dựng được quy trình về trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và thực hiện
tốt quy trình đó, góp phần cho công tác ngăn ngừa nợ xấu một cách hiệu quả.
- Xác định nợ xấu
Việc xác định nợ xấu cần được NHTM thực hiện định kỳ và đột xuất ngay khi khách hàng
hoặc khoản vay có những biểu hiện nhất định:
Dấu hiệu phi tài chính
- Hành vi của khách hàng
Tìm cách tránh gặp ngân hàng, miễn cưỡng hoặc chậm cung cấp thông tin tài chính, khách
hàng tỏ ra không đáng tin không có uy tín. Khi khách hàng có những biểu hiện này, Ngân
hàng cần tìm hiểu nguyên nhân đồng thời đánh giá toàn bộ các khoản vay hiện tại của khách
hàng, cảnh báo về khả năng dẫn đến nợ xấu.
- Khả năng quản lý
Khi có những bằng chứng phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ công ty, đặc biệt là trong đội
ngũ cán bộ quản lý; sự nghỉ ốm dài hoặc bất ngờ của những nhân sự chủ chốt, mất các nhà
quản lý cấp cao hay có những tin đồn bất lợi về doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực ngoài kinh nghiệm, chuyên môn, thiếu nhận biết về vị trí của công ty trên thị trường
hoặc về vấn đề cạnh tranh... Tất cả những điều này đều có những ảnh hưởng lớn đến hoạt
động kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ
phát sinh nợ xấu.
- Hoạt động kinh doanh
Có hoạt động pháp lý chống lại khách hàng, bao gồm cả những khó khăn với cơ quan thuế
hoặc hải quan. Các nhà cung cấp, nhà phân phối lớn thay đổi chính sách bán, mua hàng.
Tình hình môi trường vĩ mô có tác động theo hướng bất lợi tới hoạt động kinh doanh của
khách hàng qua đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người vay hay không.
Dấu hiệu tài chính
- Kết quả kinh doanh: Doanh thu tăng quá nhanh nhưng vốn lưu động không sẵn sàng đủ,
tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn mức bình quân của ngành, các khoản thu nhập và chi
phí bất thường tăng đột biến, xuất hiện lỗ ròng hoặc lưu chuyển tiền tệ âm
- Tài sản cố định: Giá trị còn lại tài sản cố định giảm mạnh, tốc độ đầu tư tài sản cố định
tăng quá nhanh, hoạt động của tài sản thấp bất thường
- Cơ cấu tài chính và quản lý nợ vay: Cơ cấu nợ vay/vốn chủ sở hữu thay đổi đột biến theo
chiều hướng tăng tỷ trọng vốn vay, tốc độ tăng nợ vay không tương xứng với tốc độ tăng
doanh thu, trì hoãn tăng vốn hoặc tài trợ dài hạn, hoặc tăng vốn nhưng với mức lãi suất cao.
Thu nhập để lại có xu hướng giảm dần, khả năng trả lãi kém đi, yêu cầu ngân hàng thay đổi
các điều khoản đảm bảo hoặc các cam kết trả nợ.
16
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
- Các khoản phải thu và phải trả: Vòng quay các khoản phải thu/phải trả thương mại chậm
lại. ác khoản phải thu, phải trả quá tập trung vào một số đối tác lớn, các khoản dự phòng
phải thu khó đòi tăng nhanh.
- Hàng tồn kho: Hàng tồn kho quá nhiều, nguyên vật liệu mua bị trả lại nhiều. Các khoản
dự phòng giảm giá hàng tồn kho tăng nhanh
Trên cơ sở những dấu hiệu và số liệu nêu trên, ngân hàng sẽ thực hiện đánh giá
khách hàng, khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng để xác định khoản nợ đó là nợ xấu hay
không. Việc xác định khoản vay là nợ xấu sẽ dựa trên mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của
các dấu hiệu về tài chính và phi tài chính đến khả năng trả nợ của khách hàng, trên cơ sở
thiết lập một bộ chỉ tiêu (bao gồm các dấu hiệu tài chính và phi tài chính) quy đổi theo tỷ lệ
nhất định tương ứng với khả năng trả nợ của khách hàng. Thông thường, việc đánh giá
khách hàng, khả năng trả nợ cũng như xác định nợ xấu được các NHTM chuẩn hóa thành Hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
Ngoài ra, những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của NH, đang được theo dõi tại
ngoại bảng cũng là các khoản nợ xấu.
- Xử lý nợ xấu
+ Cơ sở pháp lý để xử lý nợ xấu
Sau khi khoản nợ của khách hành được xác định là nợ xấu, Ngân hàng tiến hành các biện
pháp xử lý nợ xấu, cơ sở pháp lý để xử lý là Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng
với khách hàng cho khoản vay. Hợp đồng tín dụng là một dạng của Hợp đồng kinh tế thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khoá XI thông qua ngày
15-6-2004 (đã bổ sung, sửa đổi) và các quy định pháp luật khác liên quan.Theo quy định của
NHNN về xử lý nợ xấu, khi một khoản nợ được xác định là nợ xấu, Ngân hàng được phép
sử dụng các biện pháp xử lý để thu hồi nợ như phát mại tài sản bảo đảm, yêu cầu bên bảo
lãnh trả nợ thay, khởi kiện ra toà, thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ và tất cả các biện pháp để
thu hồi nợ.
+ Biện pháp xử lý nợ xấu
Xử lý nợ xấu là việc thu hồi nợ xấu hoặc bán nợ xấu đối với những khoản nợ xấu đang tồn
tại. Công tác xử lý nợ xấu tốt góp phần làm cho NHTM có thể giảm thiểu nợ xấu từ đó giảm
tỷ lệ nợ xấu. Việc xử lý nợ xấu có thể được tiến hành bằng nhiều cách:
Xử lý rủi ro nợ xấu: Công tác xử lý rủi ro nợ xấu công tác rất quan trọng, nó cũng
được coi như là một khâu của quá trình xử lý nợ xấu. Khi NHTM phát hiện được những rủi
ro tiềm ảnh nguy cơ phát sinh nợ xấu hoặc cụ thể hơn là các khoản nợ đã quá hạn và có khả
năng chuyển thành nợ xấu thì Ngân hàng phải tìm mọi biện pháp để khắc phục tình trạng
này bằng cách yêu cầu khách hàng trả nợ hoặc bằng rất nhiều biện pháp khác để ngăn chặn
khả năng các khoản nợ này chuyển thành nợ xấu.
Thu hồi nợ xấu: Bằng các biện pháp nghiệp vụ hiệu quả, NHTM áp dụng mọi biện
pháp để tiến hành thu hồi nợ xấu. Có thể bám sát hoạt động của khách hàng để thu hồi nợ,
17
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
xử lý tài sản để thu nợ đối với những khoản nợ còn tài sản bảo đảm...
Bán nợ: Đối với khoản nợ xấu mà có khả năng bán nợ thì nhiều khi phương pháp bán
nợ lại là phương pháp hiệu quả để nhanh chóng xử lý nợ xấu được tốt. Tuy nhiên, ở Việt
Nam hiện nay thì việc mua bán nợ còn chưa được phổ biến, các Công ty kinh doanh trong
việc mua bán nợ rất ít, chủ yếu các NHTM chỉ bán nợ được cho Công ty mua bán nợ của Bộ
tài chính nên các Ngân hàng thường chịu thiệt hơn khi tiến hành mua, bán nợ với Công ty
này. Bán nợ không chỉ là biện pháp để xử lý nợ xấu mà bán nợ còn là một biện pháp hữu
hiệu để ngân hàng thực hiện việc cơ cấu lại danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro phát sinh.
1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu
1.3.3.1. Nhân tố chủ quan
Quy trình quản lý tín dụng của Ngân hàng thương mại: Quy trình quản lý tín dụng của
NHTM ở đây là bao gồm chung các hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động tín
dụng do NHTM ban hành và quy trình cấp tín dụng của NHTM. Khi quy trình quản lý tín
dụng của NHTM thiếu tính chặt chẽ, hiệu quả sẽ dẫn tới tình trạng phát sinh rủi ro tín dụng
và nguy cơ nợ xấu xảy ra, ảnh hưởng đến công tác quản lý nợ xấu.
Chất lượng đội ngũ cán bộ NHTM: Đội ngũ cán bộ thiếu trình độ, kinh nghiệm non
kém sẽ dẫn đến khả năng ra quyết định sai lầm là nguyên nhân dẫn đến rủi ro xảy ra đối với
các khoản vay và dẫn đến nợ xấu. Việc thẩm định khoản vay không chỉ đơn giản là dựa vào
việc thu thập hồ sơ rồi phân tích dựa trên số liệu thu thập được mà để thẩm định tốt, người
cán bộ thẩm định còn phải có khả năng cảm nhận thông tin từ khách hàng, từ môi trường
bên ngoài và có phương pháp tìm hiểu về doanh nghiệp để chủ động sớm phát hiện những
rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra. Ngoài ra rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng cũng là yếu tố dễ
dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng. Nếu như cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn
cao, có đủ kinh nghiệm trong việc thẩm định hồ sơ nhưng do đạo đức kém, thoái hoá, biến
chất thì cán bộ tín dụng dễ dàng bỏ qua việc phát hiện rủi ro để đổi lấy một lợi ích nào đó và
đây sẽ là nguyên nhân dễ dàng dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong Ngân hàng chưa đạt hiệu quả cao: Kiểm tra
nội bộ là hoạt động cần thiết đối với hoạt động của các NHTM. Bộ máy của mỗi NHTM cần
có bộ phận kiểm tra nội bộ. Bộ phận này có chức năng kiểm tra nội bộ đối với hoạt động của
Ngân hàng thương mại nói chung trong đó có hoạt động tín dụng. Bộ phận kiểm tra nội bộ
cần có đủ khả năng để chủ động phát hiện những sai phạm, những tồn tại trong quy trình
quản lý rủi ro và đề ra những giải pháp xử lý, khắc phục tình hình. Về nguyên tắc, bộ phận
kiểm tra nội bộ phải hoạt động độc lập, có mục tiêu độc lập với bộ phận tín dụng. Công tác
kiểm tra nội bộ phải đảm báo tính khách quan. Cán bộ làm việc tại bộ phận này đòi hỏi phải
có trình độ chuyên môn cao để có thể phát hiện những vi phạm hoặc rủi ro tiềm ẩn trong
công tác tín dụng. Tuy nhiên, có nhiều NHTM duy trì bộ phận kiểm tra nội bộ mang nặng
tính hình thức, không phát huy được hiệu quả cao nên đây là một nhân tố làm ảnh hưởng
đến công tác quản lý nợ xấu của NHTM.
18
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý rủi ro tín dụng còn lạc hậu,
chưa cập nhật: Hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng
trong công tác thẩm định khách hàng. Khi hệ thống này không được cập nhật theo kịp được
sự tiến bộ của công nghệ mới để có thể cập nhật tốt nhất thông tin về ngành hàng, thông tin
về khách hàng sẽ là một hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho cán bộ thẩm định, khiến
cho công tác phát hiện rủi ro tín dụng kém hiệu quả, ảnh hưởng đến công tác quản lý nợ xấu.
1.3.3.2. Nhân tố khách quan
Tác động của môi trường kinh tế xã hội trong và ngoài nước: Tác động của môi
trường kinh tế xã hội như tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới đến
môi trường kinh tế trong nước làm cho hoạt động của doanh nghiệp và NHTM bị ảnh
hưởng. Doanh nghiệp là khách hàng của NHTM nên khi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp khó khăn sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ NHTM và là nguyên nhân khách quan
dẫn đến việc phát sinh nợ xấu.
Tác động của hệ thống luật pháp: Các văn bản pháp luật của các cơ quan ban hành
pháp luật là cơ sở mà hoạt động tín dụng phải tuân theo. Chính vì vậy, hệ thống văn bản
pháp luật đầy đủ, điều chỉnh chuẩn mực sẽ có định hướng tốt cho hoạt động tín dụng. Ngược
lại, nếu hệ thống văn bản pháp luật thiếu sự đồng bộ, nội dung điều chỉnh quá máy móc hoặc
không phù hợp với môi trường kinh tế xã hội sẽ khiến cho việc quản lý hoạt động tín dụng
gặp khó khăn và dễ phát sinh nợ xấu.
Đạo đức của khách hàng: Đạo đức khách hàng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực
tiếp đến công tác quản lý nợ xấu của NHTM. Khi Ngân hàng cấp tín dụng cho những khách
hàng có đạo đức kém thì Ngân hàng dễ gặp phải rủi ro tín dụng phát sinh. Những khách
hàng có đạo đức không tốt thường không bộ lộ trước khi Ngân hàng cấp tín dụng nên rất
khó khăn cho cán bộ Ngân hàng trong việc phát hiện rủi ro này. Đạo đức khách hàng không
tốt thể hiện trong việc khách hàng không hợp tác trả nợ Ngân hàng, khách hàng vi phạm
những cam kết đã ký với Ngân hàng, gây ra tình trạng nợ quá hạn, thậm chí là nợ xấu xảy ra.
Khả năng tổ chức hoạt động kinh doanh của khách hàng: Khả năng tổ chức hoạt động
kinh doanh của khách hàng vay vốn là yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng
của NH. Với những khách hàng yếu kém trong việc tổ chức hoạt động kinh doanh trước mắt
sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, ở mức nặng hơn sẽ làm thâm
hụt vốn và tiếp đến sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ NH.
1.3.4. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nợ xấu (các công cụ quản lý nợ xấu)
+ Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ: Khi tỷ lệ nợ xấu tính trên tổng dư nợ thấp là một chứng tỏ
hiệu quả quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại đạt kết quả tốt.
+ Tổng số nợ xấu: Tổng số nợ xấu cũng là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý nợ xấu.
Có thể tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ thấp nhưng tổng số nợ xấu lại có giá trị cao thì cũng
19
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
phần nào đánh giá hiệu quả quản lý nợ xấu kém. Việc giữ thấp được tỷ lệ nợ xấu trên tổng
dư nợ thấp chẳng qua bằng phương thức tăng dư nợ nhưng cùng với quá trình tăng dư nợ lại
làm cho con số nợ xấu ngày càng cao. Trong trường hợp này thì công tác quản lý nợ xấu
cũng được đánh giá là kém hiệu quả.
+ Chất lượng của những khoản cấp tín dụng chưa phát sinh nợ xấu của Ngân hàng thương
mại: Khi những khoản cấp tín dụng của NHTM mặc dù chưa phát sinh thành nợ xấu nhưng
được đánh giá là tiềm ẩn nhiều rủi ro thì chứng tỏ công tác phòng ngừa nợ xấu trong công
tác quản lý nợ xấu của NHTM được đánh giá là kém hiệu quả.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN
HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Sở giao dịch
-
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày
01/4/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc NHNN Việt Nam). Là ngân
hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa chọn thực hiện thí điểm cổ phần
hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng
TMCP vào ngày 02/6/2008.
Tên đầy đủ: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Tên viết tắt: Vietcombank
Tên giao dịch quốc tế: Joint Stock Commercial Bank For Foreign Trade Of Vietnam
-
Địa chỉ: Số 198 Trần Quang Khải, phường Lý Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
-
Website: www.vietcombank.com.vn
-
Loại hình: Ngân hàng Thương mại Cổ phần
-
Vốn điều lệ: 23.174.170.760.000 đồng
Trải qua gần 50 năm hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Ngoại thương đã
từng bước khẳng định vị trí hàng đầu của mình trong nhiều lĩnh vực như thanh toán quốc tế,
tài trợ thương mại, kinh doanh ngoại hối, phát hành thẻ, ứng dụng công nghệ tiến tiến vào
trong hoạt động ngân hàng và cũng là ngân hàng có nguồn vốn vào loại lớn nhất Việt Nam.
Cùng với sự phát triển chung của Ngân hàng Vietcombank, Sở giao dịch Ngân hàng TMCP
Ngoại thương đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện để góp phần hỗ trợ thúc đẩy các ngành
kinh tế, doanh nghiệp phát triển. Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
thành lập ngày 25/3/1991 là đơn vị trực thuộc, hạch toán chung với Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Trung ương. Đó cũng là nơi mà các quy định, chính sách của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương được thực thi đầu tiên. Đến ngày 01 tháng 01 năm 2006, Sở giao dịch tách ra
hoạt động như là một chi nhánh độc lập. Đến ngày 30/10/2008, Sở giao dịch Vietcombank
đã chính thức khai trương trụ sở hoạt động mới tại địa chỉ 31-33 Ngô Quyền, Phường Hàng
Bài, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.
20
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Trong thời gian qua, Sở giao dịch đã nhanh chóng khẳng định được vị thế “anh cả”
trong đại gia đình Vietcombank. SGD hoạt động như một Chi nhánh của Vietcombank với
thị phần lớn trong nhiều lĩnh vực tại Hà Nội. Với hoạt động kinh doanh đa dạng, Sở giao
dịch Vietcombank hiện cung ứng tất cả các dịch vụ liên quan đến tiền tệ, ngân hàng và nhiều
hoạt động khác theo Luật các tổ chức tín dụng.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch
a, Chức năng của Sở giao dịch
• Huy động vốn: nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng ngoại tệ, VND trong và ngoài
nước. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, TP, kỳ phiếu. Nhận vốn tài trợ từ bên ngoài….
• Cho vay: cho vay bằng Việt Nam đồng, ngoại tệ với mọi chủ thể của nền kinh tế theo
quyền hạn và hạn mức được Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt nam uỷ quyền.
• Thực hiện bảo lãnh, tái bảo lãnh (theo quy định)
• Thực hiện nghiệp vụ kế toán quốc tế: L/C, nhờ thu kèm chứng từ, bảo thanh toán…
• Cung cấp dịch vụ quản lý.
• Thực hiện cung ứng các phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán chuyển tiền, thu chi
hộ, nhờ thu, ngân quỹ cho khách hàng.
• Thực hiện các nghiệp vụ phát sinh về tiền gửi, tiền vay theo quy định quản lý vốn.
• Thực hiện kế toán quản lý tài chính, lập báo cáo tài chính.
• Thực hiện công tác quản lý ngân quỹ theo quy định.
• Thống kê báo cáo tình hình hoạt động của Sở giao dịch.
• Thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, công tác tổ chức và quản lý cán bộ.
b, Nhiệm vụ của Sở giao dịch
Sở giao dịch có chức năng, nhiệm vụ của một ngân hàng hiện đại, SGD là nơi tiên phong
thực hiện các chủ trương chính sách của VCB, đi đầu trong việc thử nghiệm và triển khai
các sản phẩm mới cũng như thực hiện một số nghiệp vụ đặc thù khác. Chiến lược kinh
doanh của SGD tập trung vào công tác huy động vốn để trở thành chi nhánh dẫn đầu trong
hệ thống về hoạt động huy động vốn, là đầu mối cung ứng vốn cho toàn hệ thống
Vietcombank.
c, Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch
Sở giao dịch Vietcombank hiện có hệ thống 17 PGD và khoảng 150 máy ATM được đặt tại
các điểm giao dịch thuận tiện, đảm bảo cung cấp đến khách hàng những dịch vụ hiện đại,
tiện ích cùng chất lượng dịch vụ tốt nhất. Bộ máy tổ chức của SGD được xây dựng theo mô
hình ngành dọc, bao gồm: 1 Giám đốc là Ông Nguyễn Mỹ Hào, 4 Phó Giám đốc là Bà Phạm
Thị Mai, Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Bà Phạm Thị Hương Giang, Ông Nguyễn Hùng cùng
21
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2