Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.63 KB, 60 trang )
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Biểu 2.1: Dư nợ theo nhóm khách hàng doanh nghiệp (tỷ VND)
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh SGD Vietcombank 2010-2012)
Vấn đề đáng chú ý là trong tổng số nợ xấu của SGD thì có đến hơn 90% giá trị nợ
xấu là do Công ty CP Container quốc tế CAS. Tính đến hết 2011, số nợ của Công ty này đã
lên tới gần 750 tỷ đồng. Đặc biệt hơn là toàn bộ nợ của Công ty này đã bị phân vào nhóm 5.
Nguyên nhân phát sinh khoản nợ xấu với CAS là năm 2008, SGD quyết định cấp tín dụng
đầu tư dự án để xây dựng Nhà máy sản xuất container của Công ty này. Tại thời điểm xây
dựng Nhà máy, phương án kinh doanh được đánh giá là khả thi vì Công ty đã ký được một
số đơn hành tiêu thụ container với các đối tác nước ngoài. Nhưng khi dự án đang triển khai
thì nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng khó khăn, đối tác nước ngoài đã huỷ các hợp đồng
mua container với Công ty nên vốn của SGD Vietcombank đã đổ vào xây dựng nhà máy
đứng trước tình trạng khó thu hồi. Tuy nhiên đến năm 2012 SGD đã đẩy mạnh việc thu hồi,
xử lý nợ đối khoản nợ của Công ty này và một số công ty thuộc nhóm đen khác như: công ty
CP An Phu Hung, Công ty TNHH Hong Trang (Các công ty có khoản nợ thuộc nhóm 5)
khiến cho tỷ lệ nợ xấu của SGD giảm đáng kể.
Tỷ lệ nợ xấu qua các năm:
Được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ xấu qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Tỷ lệ nợ xấu (%)
8,7
9,28
2,86
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh SGD Vietcombank 2010-2012)
Biểu 2.2: Tỷ lệ nợ xấu (%)
34
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh SGD Vietcombank 2010-2012)
Ta có thể thấy tỷ lệ nợ xấu của SGD trong những năm gần đây đã giảm khá mạnh.
Sở dĩ tỷ lệ nợ xấu giảm khá mạnh là do trong hơn 2 năm qua, Sở giao dịch đã tăng cường
mở rộng và chọn lọc hệ thống khách hàng, đồng thời SGD cũng đã thiết lập được các khách
hàng khá tốt để tăng trưởng dư nợ tốt nên đã giảm được đáng kể tỷ lệ nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu
giảm là một dấu hiệu khá thuận lợi cho Sở giao dịch trong hoạt động kinh doanh, làm cho
SGD giảm được bớt áp lực về tỷ lệ nợ xấu cao.
Cơ cấu nợ xấu: được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.6: Cơ cấu nợ xấu qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Tổng nợ xấu (tỷ đồng)
585
905
332
Trong đó
Nợ nhóm 3 (Tỷ trọng (%))
6,84
13,81
75,9
Nợ nhóm 4 (Tỷ trọng (%))
0
1
19,6
Nợ nhóm 5 (Tỷ trọng (%))
93,16
85,19
4,5
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh SGD Vietcombank 2010-2012)
Thông qua bảng cơ cấu nợ xấu của Sở giao dịch, ta có thể thấy rõ một điểm nổi bật là
trong 03 nhóm nợ thì nợ nhóm 5 của Sở giao dịch luôn chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong 2 năm
2010 và 2011 khoản nợ nhóm 5 luôn chiếm tỷ trọng trên 85%. Đến năm 2012, nợ nhóm 5 chỉ
còn chiếm 4,5% trong tổng nợ xấu của Sở giao dịch. Mà nguyên nhân khiến tỷ trọng nợ nhóm
5 giảm mạnh như vậy là do khoản nợ của các đơn vị thuộc nhóm đen đã được SGD giải quyết
triệt để.
Từ thực tế trên ta thấy rõ tỷ lệ nợ xấu của sở giao dịch đã giảm đáng kể trong những
năm gần đây đặc biệt là năm 2012 qua đó ta thấy được công tác quản lý nợ xấu tại SGD đã
mang lại hiệu quả rất tích cực.
b, Tình hình nợ xấu ngoại bảng tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam:
35
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Bảng 2.7: Số dư nợ ngoại bảng đã xử lý DPRR
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Số dư nợ ngoại bảng đã xử lý DPRR
466
401
389
Nguồn: Báo cáo nợ ngoại bảng của Sở giao dịch giai đoạn 2010-2012
Nhìn vào bảng trên có thể thấy số dư nợ xấu ngoại bảng của Sở giao dịch trong 03
năm trở lại đây có giảm đi, trong đó SGD Vietcombank dùng thêm quỹ Dự phòng rủi ro để
xử lý nợ xấu, theo dõi ra ngoại bảng với con số rất nhỏ. Điều này thể hiện, công tác thu hồi
nợ đã xử lý bằng dự phòng rủi ro của Sở giao dịch mang lại kết quả khá tích cực.
c, So sánh tỷ lệ nợ xấu của SGD VCB với một số Chi nhánh trong cùng hệ thống:
Bảng 2.8: Tỷ lệ nợ xấu của một số Chi nhánh VCB trong cùng hệ thống
Đơn vị: %
Tên Chi nhánh/Năm
2010
2011
2012
Sở giao dịch VCB
8,7
9,28
2,86
VCB – Chi nhánh Hà Nội
5,23
8,05
3,50
VCB – Chi nhánh Thành Công
1,75
5,76
2,25
VCB – Chi nhánh Chương Dương
2,52
6,01
1,77
Nguồn: Các báo cáo hoạt động tín dụng của một số Chi nhánh VCB
Nhìn vào bảng tỷ lệ nợ xấu của các Chi nhánh có thể nhận thấy rằng, tỷ lệ nợ xấu của
Sở giao dịch vẫn còn cao hơn tỷ lệ nợ xấu của các Chi nhánh trong 03 năm trở lại đây. Qua
đó có thể thấy rằng vấn đề nợ xấu của SGD vẫn rất cần được quan tâm.
2.4.2. ....Đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
2.4.2.1. Công tác phòng ngừa nợ xấu phát sinh
a, Chính sách quản lý rủi ro tín dụng và thẩm quyền cấp tín dụng đang được áp dụng:
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Vấn đề quản lý rủi ro tín dụng luôn được Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung và Sở giao dịch nói riêng rất quan tâm.
Chính sách và mô hình quản lý rủi ro tín dụng luôn được Ban lãnh đạo chú trọng và thay đổi
cho phù hợp với tình hình hoạt động tín dụng trong từng thời kỳ.
Sự thay đổi trong chính sách quản lý rủi ro tín dụng áp dụng tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam:
Nếu như trước tháng 07/2008, mô hình quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
Vietcombank được tổ chức theo phương thức: Tại từng Chi nhánh có chia bộ phận tín dụng
làm 3 Phòng. Phòng Quan hệ Khách hàng chịu trách nhiệm tiếp nhận toàn bộ các nhu cầu
của khách hàng, nêu các thông tin về khách hàng vào Báo cáo đề xuất cấp tín dụng, Phòng
Quản lý rủi ro tín dụng chịu trách nhiệm về thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín
36
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
dụng, Phòng quản lý nợ chịu trách nhiệm giải ngân hồ sơ do Phòng Quản lý rủi ro tín dụng
chuyển sang sau khi tiến hành thẩm định xong thì bắt đầu từ ngày 01/09/2008, mô hình quản
lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng Vietcombank được áp dụng theo mô hình mới, theo đó tại
từng Chi nhánh chỉ còn 02 bộ phận tham gia vào quá trình cấp tín dụng, cụ thể: Phòng
Khách hàng/Đầu tư dự án/ SMEs chịu trách nhiệm tiếp cận khách hàng, nắm bắt toàn bộ các
nhu cầu của khách hàng, thực hiện thẩm định rủi ro để quyết định cấp tín dụng trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Hồ sơ sau khi đã được duyệt sẽ được chuyển cho Phòng Quản lý nợ
để giải ngân.
Việc quản trị rủi ro được thay đổi từ việc xóa bỏ mô hình có Phòng quản lý rủi ro tín
dụng tại Chi nhánh trong hệ thống. Việc quản lý rủi ro hiện nay được tập trung về Phòng
quản lý rủi ro tín dụng tại Hội sở chính, Phòng này thực hiện chức năng quản lý rủi ro của
toàn hệ thống.
Thẩm quyền cấp tín dụng: Thẩm quyền xem xét, cấp tín dụng được Hội sở chính quy
định giao cho từng Chi nhánh. Trong giới hạn thẩm quyền này, Chi nhánh được tự quyết định
cấp tín dụng. Đối với những mức cấp tín dụng cao hơn mức đã được giao theo thẩm quyền,
Chi nhánh phải trình lên Hội sở chính xin phê duyệt. Với mô hình quản lý rủi ro tín dụng như
hiện nay đã khắc phục được tồn tại trước đây là đã khắc phục được việc làm chậm trễ quá
trình cấp tín dụng cho khách hàng do mô hình trước đây làm cho việc cấp tín dụng đối với
khách hàng phải thông qua Phòng quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh.
b, Quy trình cấp tín dụng đang áp dụng tại Sở giao dịch:
Đối với khách hàng doanh nghiệp
Việc cấp tín dụng đối với Khách hàng doanh nghiệp được thống nhất thực hiện theo
nguyên tắc chuẩn là cán bộ tín dụng phải tiến hành xác định một mức giới hạn tín dụng nhất
định cho từng khách hàng. Trong giới hạn tín dụng này bao gồm tất cả cảc loại hạn mức
như: Hạn mức cho vay, hạn mức tài trợ thương mại…
Việc cấp tín dụng được thực hiện trên cơ sở các hạn mức tín dụng đã được cấp. Tất
cả các những công việc liên quan đến quá trình tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, lập
các báo cáo cấp tín dụng đều do cán bộ bộ phận tiếp xúc khách hàng là cán bộ các Phòng
Khách hàng/ Đầu tư dự án/ SMEs đảm nhận. Chỉ có đến khâu giải ngân hồ sơ sẽ được đưa
cho Phòng Quản lý nợ để tác nghiệp giải ngân trên hệ thống.
Đối với khách hàng thể nhân:
Đối với khách hàng thể nhân, Sở giao dịch cấp tín dụng trên cơ sở cấp tín dụng có tỷ
lệ tài sản bảo đảm nhất định. Đối với các món vay có tài sản bảo đảm là bất động sản thì tỷ
lệ tài sản bảo đảm tính trên giá trị mỗi món vay là 70%, đối với tài sản bảo đảm là Nhà ở thì
tỷ lệ này là 60%. Về mức phán quyết cấp tín dụng đối với những khoản vay có giá trị trên 10
tỷ đồng phải trình qua Hội đồng tín dụng SGD, đối với những khoản vay có giá trị nhỏ hơn
10 tỷ đồng chỉ cần trình qua Ban Giám đốc Sở giao dịch phê duyệt. Ngoài ra, SGD còn có
37
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
sản phẩm cho vay tín chấp đối với một số cán bộ làm việc tại các cơ quan Nhà nước dựa vào
bảng xác nhận chức vụ và xác nhận lương của cơ quan mà người xin vay đang công tác.
Đối tượng khách hàng cá nhân là đối tượng khách hàng rất phức tạp nên rất dễ xảy ra rủi ro
khi cho vay. Thực tế cho thấy, với các khách hàng vay tín dụng theo phương thức xác nhận
lương dễ xảy ra khả năng người vay chuyển nơi làm việc nhưng cơ quan không thông báo
cho Ngân hàng nên nhiều trường hợp khách hàng không tiếp tục trả nợ vay.
c,
Thực hiện chấm điểm, xếp hạng tín dụng:
Sự thay đổi trong quy trình xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng
Vietcombank nói chung và Sở giao dịch Ngân hàng Vietcombank nói riêng:
Nếu như trước đây, việc chấm điểm xếp hạng khách hàng được thực hiện 01
năm/01lần. Thời gian thực hiện khi cán bộ rà soát giới hạn tín dụng đối với khách hàng.
Phương thức thực hiện là thực hiện theo file excel do cán bộ tín dụng tự nhập thông tin báo
cáo tài chính và tình hình phi tài chính của Khách hàng để đưa ra được mức xếp hạng thì kể
từ ngày 17/03/2010, theo Quyết định số 117/QĐ-VCB.CSTD, việc chấm điểm, xếp hạng tín
dụng đối với khách hàng được thực hiện định kỳ 03 tháng/01 lần. Phương thức tiến hành là
dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được lập thành phần mềm do Hội sở chính quản
lý, cán bộ tại các Chi nhánh thực hiện nhập thông tin tài chính và phi tài chính của khách
hàng trên hệ thống và hệ thống tự cho điểm, xếp hạng khách hàng. Đối với những khách hàng
thuộc thẩm quyền phê duyệt tín dụng của HSC thì Chi nhánh phải thông qua Phòng Quản lý
rủi ro tín dụng HSC để chấm điểm xếp hạng tín dụng. Việc xếp hạng tín dụng được tiến hành
theo định kỳ 03 tháng/01 lần giúp cho việc đánh giá hạng của khách hàng được chính xác hơn
và mang tính cập nhật hơn.
d,
Quy trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro:
Quy trình phân loại nợ của mỗi Ngân hàng thương mại có ảnh hưởng lớn đến công
tác quản lý nợ xấu của NHTM đó, cụ thể hơn là có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ nợ xấu của
NHTM. Việc thực hiện phân loại nợ dựa theo yếu tố nào quyết định đến con số nợ xấu.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN để quy
định về vấn đề này. Từ trước đến nay, các NHTM chủ yếu thực hiện việc phân loại nợ dựa
theo nội dung của điều 6, quyết định này, tức là phân loại nhóm nợ dựa vào thời gian của
khoản nợ. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, việc phân loại nợ bắt đầu được thực
hiện theo hướng không chỉ dựa vào thời gian của khoản nợ mà việc phân loại nợ dựa vào sự
đánh giá cả vấn đề tài chính và phi tài chính trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam là một trong số ít các NHTM bắt đầu thực hiện
áp dụng việc phân loại nợ theo hướng dựa vào sự đánh giá tình hình tài chính và phi tài
chính của khách hàng kể từ đầu năm 2010.
Sự thay đổi trong quy trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam nói chung và Sở giao dịch nói riêng:
38
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Nếu như thời điểm trước Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thực hiện việc
thực hiện phân loại theo điều 6 của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN thì từ thời điểm
Quý II/2010, việc phân loại nợ được thực hiện theo hướng áp dụng điều 7 của Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN, tức là việc phân loại nợ không dựa vào thời gian của khoản nợ như
trước đây mà việc phân loại nhóm nợ hiện nay được căn cứ hoàn toàn vào mức xếp hạng của
khách hàng. Mức xếp hạng khách hàng được thực hiện định kỳ 03 tháng/01 lần và dựa vào
việc đánh giá tình hình tài chính, phi tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh của khách
hàng.
e, Vấn đề nguồn lực con người trong công tác phòng ngừa nợ xấu:
Nhân tố nguồn lực con người luôn là nhân tố quan trọng trong mọi hoạt động của bất
kỳ một tổ chức nào đặc biệt trong Ngân hàng là một tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp đòi hỏi
con người phải có trình độ cao. Tại SGD Vietcombank không có bộ phận lập chính sách về
quản lý tín dụng. Việc ban hành chính sách về quản lý tín dụng được thực hiện do Phòng
Chính sách tín dụng thuộc Hội sở chính và các Chi nhánh trong đó có SGD thực hiện theo
các chính sách được HSC ban hành. Nguồn lực con người trong quy trình quản lý tín dụng
bao gồm con người công tác ở bộ phận lãnh đạo Ngân hàng, Phòng Chính sách tín dụng,
Phòng quản lý rủi ro tín dụng thuộc HSC, các cán bộ thuộc có vai trò tiếp xúc, thẩm định
khách hàng, bộ phận kiểm tra giám sát tuân thủ của SGD. Tuy nhiên việc tổ chức nhân sự ở
bộ máy quản lý rủi ro tín dụng còn có một số điểm tồn tại là: Cán bộ ban hành chính sách
thuộc Phòng Chính sách tín dụng và cán bộ thuộc bộ phận thẩm định của Phòng Quản lý rủi
ro tín dụng của Hội sở chính phần lớn còn là các cán bộ trẻ, kinh nghiệm về cấp tín dụng
chưa có nhiều nên chắc chắn việc ban hành chính sách tín dụng để áp dụng trong hệ thống
còn nhiều bất cập; Cán bộ thuộc các bộ phận tiếp xúc và thẩm định khách hàng tại SGD còn
chưa có trình độ đồng đều, thiếu kinh nghiệm về các nghiệp vụ bổ trợ như nghiệp vụ về
thanh toán quốc tế, nghiệp vụ về bảo lãnh...có một số cán bộ không được đào tạo đúng
chuyên ngành nên khá khó khăn trong việc thực hiện công việc.
f, Về công tác tổ chức quản lý tín dụng:
Công tác tổ chức quản lý tín dụng còn nhiều có bất cập: Như việc thẩm định cho vay
còn thiếu thông tin về thị trường, ngành hàng, việc kiểm tra trước và sau cho vay còn hạn
chế, đặc biệt công tác kiểm tra trước cho vay còn mang nặng tính hình thức chưa được tiến
hành độc lập.
g, Về công nghệ thông tin đang áp dụng:
Công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro tín dụng đối
với các NHTM nói chung và SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt nam nói riêng. Hệ
thống công nghệ thông tin càng hiện đại càng giúp cho Ngân hàng tra cứu thông tin tốt, quản
lý tốt phân loại nợ theo các ngành...từ có kịp thời có dự báo dư nợ theo các ngành...giúp cho
công tác quản trị rủi ro và quản lý nợ xấu được tốt. Tuy nhiên, phần mềm lõi của Ngân hàng
39
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
TMCP Ngoại thương là phần mềm đã được mua từ những năm 2000, đã khá cũ nên việc
thực hiện quản lý trên hệ thống còn khá nhiều khó khăn.
2.4.2.2. Công tác xử lý nợ xấu tại SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Công tác xử lý nợ xấu có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động quản lý nợ
xấu. Việc xử lý nợ xấu tốt có thể làm giảm con số nợ xấu đã phát sinh tại Sở giao dịch, góp
phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu.
a,
Những Chính sách đã thực hiện để xử lý nợ xấu:
Quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD được ban hành để điều chỉnh việc xử lý nợ xấu:
Trong bối cảnh tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng, vào tháng 04/2009, Tổng giám
đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam đã ban hành Quyết định số 106/QĐNHNT.CSTD quy định về quản lý và xử lý nợ có vấn đề. Trong quyết định này có quy định
cụ thể: Khách hàng có nợ có vấn đề ngoài việc là khách hàng có nợ xấu theo quy định về
phân loại nợ, trích lập và xử lý dự phòng rủi ro, khách hàng có nợ đã xử lý dự phòng rủi ro
chưa thu đang hạch toán ngoại bảng còn là những khách hàng chưa bị phân loại thành nợ
xấu nhưng có một hoặc các dấu hiệu rủi ro sau:
-
Hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, ngừng trệ, dừng triển khai.
Gặp khó khăn trong đầu tư...
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến mất cân đối tài chính
Khách hàng không có thiện chí hợp tác.
Khách hàng hoặc người đại diện theo pháp luật bị khởi tố......
Tổ xử lý nợ xấu được thành lập để thực hiện công tác xử lý nợ xấu:
Theo quyết định số 106/QĐ-NHNT.CSTD, những Chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu lớn hơn
3% trong 2 quý liên tiếp hoặc nếu xét thấy cần thiết Chi nhánh phải thành lập Tổ xử lý nợ
xấu. Tổ xử lý nợ xấu tại Chi nhánh do Giám đốc Chi nhánh quyết định thành lập. Nhiệm vụ
của Tổ xử lý nợ xấu là chuyên trách quản lý và tham mưu cho lãnh đạo trong việc xử lý và
thu hồi nợ có vấn đề. Trên cơ sở đó, Tổ xử lý nợ xấu của Sở giao dịch Vietcombank được
thành lập trực thuộc sự quản lý của Giám đốc SGD. Tổ này chuyên trách trong việc xử lý nợ
xấu. Nhờ có sự hoạt động tích cực của Tổ xử lý nợ xấu mà công tác xử lý nợ xấu đối với cả
nợ xấu nội bảng và nợ đã được xử lý dự phòng rủi ro đã được thu hồi khá tốt.
b,
Thực trạng công tác thu hồi nợ xấu:
Kết quả thu hồi nợ xấu nội bảng:
Con số thu hồi nợ xấu nội bảng và ngoại bảng được thể hiện qua bảng dưới đây
40
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Bảng 2.9: Con số nợ xấu thu hồi được
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng số nợ thu được
Trong đó
Số tiền thu hồi được từ nợ nội bảng
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
222
305
572
176
223
426
Số tiền thu hồi được từ nợ ngoại bảng
46
82
146
(Nguồn: Báo cáo kết quả thu hồi nợ tại SGD Vietcombank 2010-2012)
Nhìn vào bảng kết quả trên cho thấy, SGD Vietcombank đã đạt được kết quả khá tốt
trong công tác thu hồi nợ xấu nội bảng. Trong năm 2011, Sở giao dịch đã tiến hành thu hồi
nợ xấu nội bảng với các con số thu hồi nợ nội bảng là 305 tỷ VND trong đó thu được từ
Công ty CP Container quốc tế là 105,8 tỷ VND. Đặc biệt, trong năm 2010 và 2011, Sở giao
dịch đã quyết liệt xử lý dứt điểm con số nợ xấu phát sinh từ năm 2010 do Công ty Cung ứng
dịch vụ hàng không là 24 tỷ VND, Công ty Chăn nuôi chế biến là 26,38 tỷ VND và Công ty
Hong Trang 30 tỷ VND... Trong vòng 03 năm từ năm 2010 đến hết năm 2012, Sở giao dịch
đã thu hồi được tổng số 1099 tỷ đồng nợ xấu nội bảng.
Với nỗ lực thu hồi nợ xấu như trên cùng với việc tăng trưởng dư nợ tốt đã giúp cho
Sở giao dịch giảm được tỷ lệ nợ xấu từ mức 8,7% năm 2010 xuống 2,86% năm 2012. Đây
thực sự là kết quả rất đáng khích lệ.
Kết quả thu hồi nợ xấu Ngoại bảng:
Mặc dù, công tác thu hồi nợ xấu ngoại bảng là công tác khó khăn. Tuy nhiên, nhìn
vào kết quả nợ xấu ngoại bảng mà Sở giao dịch đã thu hồi được có thể thấy SGD đã rất nỗ
lực trong công tác thu hồi nợ đã xử lý dự phòng rủi ro.
Trong năm 2010, SGD đã thu được 46 tỷ đồng nợ đã xử lý dự phòng rủi ro; năm
2011, SGD đã thu được 82 tỷ đồng; năm 2012, SGD đã thu được với số tiền khá lớn là 146
tỷ đồng. Tổng số trong 03 năm, Sở giao dịch thu hồi được 274 tỷ đồng nợ ngoại bảng.Với sự
nỗ lực không ngừng của tổ xử lý nợ xấu tại SGD và dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Giám
đốc, SGD đã đạt được kết quả tốt trong công tác thu hồi nợ xấu năm 2012. Với thành tích
này, Sở giao dịch đã được Hội sở chính tuyên dương về công tác xử lý nợ xấu cho năm
2012.
c, Thực trạng công tác xử lý rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro tại Sở giao dịch:
Kết quả trích lập dự phòng rủi ro tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng số liệu sau:
41
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2