1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Tài chính - Ngân hàng >

b, Thực trạng công tác thu hồi nợ xấu:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.63 KB, 60 trang )


Khóa luận tốt nghiệp



GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng

Bảng 2.9: Con số nợ xấu thu hồi được

Đơn vị: tỷ đồng



Chỉ tiêu

Tổng số nợ thu được

Trong đó

Số tiền thu hồi được từ nợ nội bảng



Năm 2010



Năm 2011



Năm 2012



222



305



572



176



223



426



Số tiền thu hồi được từ nợ ngoại bảng

46

82

146

(Nguồn: Báo cáo kết quả thu hồi nợ tại SGD Vietcombank 2010-2012)

Nhìn vào bảng kết quả trên cho thấy, SGD Vietcombank đã đạt được kết quả khá tốt

trong công tác thu hồi nợ xấu nội bảng. Trong năm 2011, Sở giao dịch đã tiến hành thu hồi

nợ xấu nội bảng với các con số thu hồi nợ nội bảng là 305 tỷ VND trong đó thu được từ

Công ty CP Container quốc tế là 105,8 tỷ VND. Đặc biệt, trong năm 2010 và 2011, Sở giao

dịch đã quyết liệt xử lý dứt điểm con số nợ xấu phát sinh từ năm 2010 do Công ty Cung ứng

dịch vụ hàng không là 24 tỷ VND, Công ty Chăn nuôi chế biến là 26,38 tỷ VND và Công ty

Hong Trang 30 tỷ VND... Trong vòng 03 năm từ năm 2010 đến hết năm 2012, Sở giao dịch

đã thu hồi được tổng số 1099 tỷ đồng nợ xấu nội bảng.

Với nỗ lực thu hồi nợ xấu như trên cùng với việc tăng trưởng dư nợ tốt đã giúp cho

Sở giao dịch giảm được tỷ lệ nợ xấu từ mức 8,7% năm 2010 xuống 2,86% năm 2012. Đây

thực sự là kết quả rất đáng khích lệ.

Kết quả thu hồi nợ xấu Ngoại bảng:

Mặc dù, công tác thu hồi nợ xấu ngoại bảng là công tác khó khăn. Tuy nhiên, nhìn

vào kết quả nợ xấu ngoại bảng mà Sở giao dịch đã thu hồi được có thể thấy SGD đã rất nỗ

lực trong công tác thu hồi nợ đã xử lý dự phòng rủi ro.

Trong năm 2010, SGD đã thu được 46 tỷ đồng nợ đã xử lý dự phòng rủi ro; năm

2011, SGD đã thu được 82 tỷ đồng; năm 2012, SGD đã thu được với số tiền khá lớn là 146

tỷ đồng. Tổng số trong 03 năm, Sở giao dịch thu hồi được 274 tỷ đồng nợ ngoại bảng.Với sự

nỗ lực không ngừng của tổ xử lý nợ xấu tại SGD và dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Giám

đốc, SGD đã đạt được kết quả tốt trong công tác thu hồi nợ xấu năm 2012. Với thành tích

này, Sở giao dịch đã được Hội sở chính tuyên dương về công tác xử lý nợ xấu cho năm

2012.

c, Thực trạng công tác xử lý rủi ro, trích lập dự phòng rủi ro tại Sở giao dịch:

Kết quả trích lập dự phòng rủi ro tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt

Nam trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng số liệu sau:



41

SV: Nguyễn Thị Chinh



Lớp:K45H2



Khóa luận tốt nghiệp



GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng



Bảng 2.10: Tình hình trích lập Dự phòng rủi ro tại SGD

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

1. Tổng dư nợ

6.732

9.751

11.598

2. Tổng số tiền trích lập DPRR

1.011

1.126,9

312,4

- Dự phòng chung

118

134,6

134,3

- Dư phòng cụ thể

893

992,3

178,1

(Nguồn: Báo cáo tình hình trích lập dự phòng tại Sở giao dịch năm 2010 - 2012)

Nhìn vào bảng trên có thể thấy, tổng số tiền SGD trích lập dự phòng rủi ro từ 2010

đến năm 2012 giảm mạnh. Nguyên nhân là do bắt đầu từ Quý II năm 2010, SGD thực hiện

việc phân loại nợ dựa vào xếp hạng tín dụng của khách hàng nên đã có một số khách hàng

không có nợ quá hạn nhưng mức xếp hạng lại được phân loại vào hạng nhóm 2 dẫn đến con

số trích lập dự phòng rủi ro cụ thể tăng lên. Tuy nhiên, do khoản vay đối với Công ty CP

container quốc tế và một số công ty thuộc nhóm đen khác đã được thu hồi nên đã góp phần

làm giảm mức DPRR.

Thực trạng công tác xử lý nợ xấu bằng quỹ Dự phòng rủi ro:

Có thể thấy những năm trước đây, số tiền từ quỹ dự phòng rủi ro được Sở giao dịch

sử dụng để xử lý rủi ro tín dụng rất ít, cụ thể là: Trong năm 2010 và 2011 Sở giao dịch

không sử dụng dự phòng để xử lý khoản nợ xấu nào. Thực trạng của vấn đề này là do năm

2011 có một số khoản nợ xấu đủ điều kiện sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nhưng

SGD đã trình HSC quá lâu mà chưa được phê duyệt. Tuy nhiên đến năm 2012 thì ngoài các

biện pháp xử lý những khoản nợ xấu của SGD, Hội sở chính cũng đã phê duyệt cho SGD

được sử dụng quỹ DPRR để xử lý những khoản nợ xấu rất lớn của những đơn vị thuộc nhóm

đen như Công ty CP container quốc tế, Công ty CP An Phu, Công ty TNHH Hong Trang…

khiến tỷ lệ nợ xấu tại SGD giảm mạnh vì vậy mà số tiền mà SGD phải trích lập DPRR năm

2012 giảm đi đáng kể.

Nhận xét chung: Thông qua những số liệu và sự phân tích thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở

giao dịch Vietcombank những năm gần đây ta nhận thấy rằng công tác quản lý nợ xấu tại Sở

giao dịch đã bước đầu mang lại hiệu quả rất tích cực.



42

SV: Nguyễn Thị Chinh



Lớp:K45H2



Khóa luận tốt nghiệp



GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng



CHƯƠNG 3. CÁC KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN

LÝ NỢ XẤU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI

THƯƠNG VIỆT NAM

3.1. ......Các kết luận qua nghiên cứu thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch Ngân

hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

3.1.1. Những thành công mà Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

đã đạt được trong công tác quản lý nợ xấu

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động với những cơ hội và thách

thức nhưng với lợi thế là một Chi nhánh lớn của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam,

Sở giao dịch Vietcombank vẫn luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, có khối

lượng vốn huy động lớn, giữ vai trò cung ứng vốn cho toàn hệ thống Ngân hàng

Vietcombank để qua đó ngày càng khẳng định được vị thế “anh cả” trong đại gia đình

Vietcombank.

Công tác quản lý nợ xấu của Sở giao dịch cũng đã đạt được những kết quả khá tốt, cụ thể

như sau: SGD đã thành lập được Tổ xử lý nợ xấu, hoạt động tách biệt khỏi các Phòng tín

dụng. Tổ xử lý nợ xấu chỉ tập chung vào công tác thu hồi nợ, không thực hiện cấp tín dụng

nên đảm bảo được hiệu quả tốt hơn trước. Đồng thời SGD cũng thường xuyên tổ chức kiểm

tra, đánh giá và xếp hạng tín dụng khách hàng để qua đó thực hiện cho vay theo đúng định

hướng của HSC là theo xếp hạng tín dụng của đơn vị nhằm hạn chế những khoản nợ xấu

mới phát sinh.

Nếu như tổng nợ xấu vào năm 2010 là 585 tỷ đồng năm 2011 là 905 tỷ đồng thì đến

hết năm 2012 tổng nợ xấu đã giảm chỉ còn 332 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu đã giảm khá mạnh qua

các năm: Từ con số tỷ lệ nợ cao là 8,7% năm 2010, 9,28% năm 2011 đã giảm xuống con số

2,86% vào năm 2012.

3.1.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân

3.1.2.1. Những mặt còn tồn tại

-



Chính sách quản lý rủi ro tín dụng chưa hoàn thiện:

Mô hình quản lý rủi ro tín dụng còn thể hiện nhiều điểm chưa phù hợp, cụ thể là đối

với những khoản cấp tín dụng thuộc thẩm quyền của Chi nhánh, không phải trình lên Hội sở

chính, bộ phận tiếp xúc khách hàng tại Chi nhánh đảm nhiệm từ việc tiếp nhận hồ sơ cấp tín

dụng và tự thẩm định cấp tín dụng nên sẽ không tránh khỏi sự thiếu khách quan trong quá

trình quyết định cấp tín dụng, tiềm ẩn những rủi ro xảy ra đối với các khoản cấp tín dụng.

Việc thẩm định rủi ro tại Phòng quản lý rủi ro tại Hội sở chính được thực hiện theo hình

thức tái thẩm định. Hầu hết việc thẩm định được thực hiện trên cơ sở những hồ sơ đề xuất

của Chi nhánh đưa lên, những cán bộ của Phòng quản lý rủi ro tín dụng tại HSC thiếu sự tiếp

xúc trực tiếp với hoạt động kinh doanh của khách hàng nên việc thẩm định rủi ro thực sự

chưa mang lại hiệu quả cao.



43

SV: Nguyễn Thị Chinh



Lớp:K45H2



Khóa luận tốt nghiệp

-



GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng



Thiếu công tác thẩm định rủi ro trong quá trình cấp tín dụng:

Từ mô hình quản lý rủi ro tín dụng được đưa ra chưa hoàn thiện dẫn đến quy trình

cấp tín dụng đối với doanh nghiệp đang thiếu khâu thẩm định rủi ro tín dụng độc lập đối với

các khoản vay tại Chi nhánh, chỉ có một số các Công ty mà mức giới hạn tín dụng thuộc

thẩm quyền phê duyệt của Hội sở chính thì Chi nhánh mới trình lên HSC, còn đối với các

khách hàng còn lại chi nhánh tự quyết định việc cấp tín dụng mà không có bộ phận thẩm

định rủi ro độc lập. Đây là một kẽ hở lớn dễ dẫn đến rủi ro tín dụng phát sinh, sẽ làm phát

sinh nợ xấu.



-



Công tác theo dõi, giám sát khoản vay, kiểm tra sử dụng vốn vay chưa đạt hiệu quả cao:

Công ty tác theo dõi, giám sát khoản vay còn mang nặng tính hình thức, đối phó. Cán

bộ tín dụng thực hiện việc theo dõi, giám sát, kiểm tra sử dụng vốn vay chưa bám sát tình

hình hoạt động kinh doanh thực tế của doanh nghiệp mà chỉ tiến hành kiểm tra mang tính

hời hợt, chưa có sự đối chiếu sổ sách kế toán của khách hàng …Vì vậy, dẫn đến nội dung

trên biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay hoặc các báo cáo trình lên cấp trên không phản ánh

được những điểm đáng lưu ý về tình hình kinh doanh của khách hàng mà đó có thể là

nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.



-



Chất lượng công tác thẩm định tài sản thế chấp chưa cao:

Hiện nay, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung và SGD nói riêng đã

có quy định về nhận tài sản thế chấp nhưng quy định này chủ yếu đề cập đến nội dung về tỷ

lệ tài sản bảo đảm, chưa có quy trình nghiệp vụ cụ thể cũng như các tiêu chí trong việc định

giá sản thế chấp. Chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp cho công tác định giá tài sản thế

chấp, nguồn thông tin để khai thác, phục vụ cho công tác thẩm định tài sản còn hạn chế. Vì

vậy, đưa đến một thực trạng là, công tác thẩm định tài sản để nhận làm tài sản thế chấp tại sở

giao dịch chưa có quy chuẩn, chất lượng thẩm định chưa cao.



-



Quy trình phân loại nợ và trích lập DPRR đang được áp dụng chưa phù hợp.

Theo quy trình phân loại nợ hiện hành thì phân loại nhóm nợ dựa hoàn toàn vào mức

xếp hạng của khách hàng, không dựa vào thời gian thực tế của khoản nợ. Đây thực sự còn là

một bất cập đối với việc phân loại nợ của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói

chung và của Sở giao dịch nói riêng. Như chúng ta đã biết mỗi mỗi nhóm nợ có tỷ lệ trích

lập dự phòng cụ thể khác nhau dẫn đến số tiền trích lập dự phòng rủi ro khác nhau. Với quy

trình phân loại nợ hiện nay thì sẽ xảy ra trường hợp có những khoản nợ đã quá hạn trên 10

ngày (nghĩa là được phân vào nhóm 2 theo quy định trước đây) thì hiện nay nếu như nếu

mức xếp hạng được phân vào nhóm 1 thì đương nhiên khoản nợ vẫn ở nhóm 1 và tỷ lệ trích

lập dự phòng rủi ro cụ thể là 0%. Việc quá hạn này chỉ được đánh giá vào phần lịch sử nợ

quá hạn khi đến kỳ chấm điểm xếp hạng tín dụng tiếp theo. Đây là một vấn đề còn chưa phù

hợp khi đánh giá các khoản nợ, ảnh hưởng đến công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.



44

SV: Nguyễn Thị Chinh



Lớp:K45H2



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

×